Bản án về tranh chấp chia thừa kế theo di chúc số 535/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 535/2022/DS-PT NGÀY 21/12/2022 VỀ TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ THEO DI CHÚC

Ngày 15/12/2022,tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 392/2022/TLPT-DS ngày 13/10/2022 về việc “Tranh chấp đòi tài sản”;

Do bản án dân sự sơ thẩm số 80/2022/DS-ST ngày 20/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện G bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 447/2022/QĐ-PT ngày 20 tháng 7 năm 2022 của Toà án nhân dân thành phố H, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1972; Trú tại: Thôn 3, xã B Dương, huyện Thăng B, tỉnh Quảng Nam. Ông Nguyễn Văn Th ủy quyền cho ông Phạm Quốc Th, sinh năm 1977. Trú tại: Số 407 Kim Ngưu, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, H.

Bị đơn: Ông Hoàng Ngọc M, sinh năm 1962. Trú tại: Số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, H. Ông Hoàng Ngọc M ủy quyền cho: Ông Vũ Đình Th; HKTT: P310 C3 Tân Mai, Hoàng Mai, H. Chỗ ở hiện nay: Số 78 Đốc Ngữ, phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, H. Ông Bùi Quang Tú; HKTT: Số 26 Cửa Bắc, quận Ba Đình, H. Chỗ ở hiện nay: Số 78 Đốc Ngữ, phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, H.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Hoàng Ngọc M:

+ Bà Ngô Thị Thu Thiện, sinh năm 1966

Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH Ngô Thiện. Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Hoàng Thị Th, sinh năm 1951. Trú tại: Số 6, ngách 15, ngõ 82, Phạm Ngọc Thạch, Đ, H;

2. Bà Hoàng Thị B, sinh năm 1955. Trú tại: Số 20, ngách 15, ngõ 82, Phạm Ngọc Thạch, Đ, H.

3. Bà Bùi Thị T, sinh 1975. Trú tại: Thôn 3, xã B Dương, huyện Thăng B, tỉnh Quảng Nam.

4. Bà Nông Thị Th, sinh năm 1962. Trú tại: Số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, Tp. H.

5. Chị Hoàng Trinh A, sinh năm 1989; Trú tại: Số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, Tp. H; Xin vắng mặt tại phiên tòa.

6. A Hoàng Ngọc Đức A, sinh năm 1996; Trú tại: Số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, Tp. H.

7. Cháu Hoàng Ngọc Sơn L, còn nhỏ (con của anh Đức A, chị N). Trú tại: Số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, Tp. H. Đại diện theo pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu Hoàng Ngọc Sơn L có anh Đức A (bố để của cháu L).

8. Chị Chu Thị N. Trú tại: Số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, Tp. H.

Người kháng cáo: Ông Hoàng Ngọc M, Bà Nông Thị Th.

(Ông Hoàng Ngọc M, Bà Nông Thị Th, ông Th có mặt, những người tham gia tố tụng khác vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo đơn khởi kiện ngày 10/12/2019 và quá trình tố tụng tại Tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn Th và đại diện ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Mẹ ông là cụ Nguyễn Thị T, sinh năm 1932, chết năm 2018, xây dựng gia đình với cụ Hoàng Ngọc L, chết ngày 24/4/1963. Giữa cụ T và cụ L (tức L) có với 03 (ba) người con chung là: 1. Hoàng Thị Th, sinh năm 1951; 2. Hoàng Thị B sinh năm 1954; 3. Hoàng Ngọc M sinh năm 1962.

Ngày 24/4/1963, cụ Hoàng Ngọc L chết. Năm 1970, cụ Nguyễn Thị T có đi bước nữa kết hôn với cụ Nguyễn Văn Ng, sinh năm 1925, mất năm 2001. Giữa cụ Nguyễn Thị T và Nguyễn Văn Ng, có 01 con chung là tôi Nguyễn Văn Th sinh năm 1972.

Trước khi lấy cụ Nguyễn Văn Ng thì mẹ ông, cụ Nguyễn Thị T và cụ Hoàng Ngọc L (tức L), có khối tài sản chung là thửa đất số 42-43, tờ bản đồ số: 36, tại số 52 đường Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, thành phố H, diện tích 762,5m2, bao gồm đất ở và đất ao liền kề. Nguồn gốc đất này là do bố mẹ cụ L (L) cho vợ chồng cụ L (tức L) và cụ T sử dụng, quản lý.

Năm 2012, cụ Nguyễn Thị T và các đồng thừa kế của cụ Hoàng Ngọc L (tức L), tổ chức họp có sự chứng kiến của chính quyền thống nhất về quyền sử dụng tài sản bao gồm nhà, đất đối với di sản của cụ L (tức L) để lại, thống nhất quyền sử dụng đất đứng tên cụ Nguyễn Thị T và con trai là Hoàng Ngọc M. Khi họp có đầy đủ các con cụ L (tức L) gồm bà Hoàng Thị Th, Hoàng Thị B và Hoàng Ngọc M. Năm 2013, cụ Nguyễn Thị T và con trai là Hoàng Ngọc M được Ủy ban nhân dân huyện G, H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất BK557753 ngày 03/05/2013, thửa số 42+43 tờ bản đồ số 36, địa chỉ số 52 đường Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, thành phố H, diện tích 762,5m2, hình thức sử dụng: Riêng 762,5m2, mục đích sử dụng: Đất ở đô thị 600m2; Đất trồng cây lâu năm: 162,5m2. Thời hạn sử dụng: Đất đô thị: Lâu dài. Đất trồng cây lâu năm: 50 năm.

Trên đất này có nhà ở diện tích xây dựng 73,1m2, diện tích sàn: 73,1m2,kết cấu nhà: Bê tông; cấp hạng: Cấp 4, Số tầng 1. Giá trị ước tính khoảng 1.000.000.000đồng, do vợ chồng ông Hoàng Ngọc M xây dựng.

Ngày 2/10/2018, mẹ ông cụ Nguyễn Thị T mất. Trước khi mất, năm 2015 mẹ ông có lập di chúc để lại cho ông toàn bộ quyền sử dụng đất của mẹ ông tại số 52 đường Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, thành phố H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất nêu trên.

Di chúc mẹ ông lập ngày 23/11/2015 tại UBND xã B Dương, huyện Thăng B, tỉnh Quảng Nam, mẹ ông đã lập di chúc để định đoạt tài sản. Nguyện vọng của mẹ ông trong di chúc như sau: Sau khi mẹ ông qua đời, ông sẽ được thừa hưởng toàn bộ di sản thừa kế thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mẹ ông để lại trong khối tài sản chung của mẹ ông và ông Hoàng Ngọc M, mẹ ông chỉ để lại di sản thừa kế cho ông, không để lại di sản thừa kế cho bất cứ ai khác.

Di chúc của mẹ ông có hai (02) người làm chứng là: Phan Th Hạnh và Phan Thị Ái Nghĩa và đã được UBND xã B Dương chứng thực ngày 23/11/2015.

Sau khi mẹ ông mất, ông đã nhiều lần gặp gỡ, trao đổi với ông Hoàng Ngọc M để làm thủ tục sang tên ông đối với phần di sản mẹ ông để lại nhưng ông M không đồng ý.

Nay giữa ông và ông Hoàng Ngọc M không thỏa thuận được trong việc phân chia di sản thừa kế. Vì vậy v làm đơn đề nghị Tòa án huyện G phân chia di sản thừa kế theo di chúc mà mẹ ông để lại cho ông để đảm bảo quyền lợi cho ông.

Ngoài ra trước đó khi giải tỏa đất làm đường thì có lấy vào diện tích đất khoảng 20m2 được đền bù, vợ chồng ông M đã lấy tiền đền bù và dùng vào tôn tạo đất nên ông không yêu cầu xem xét giải quyết.

Tại các bản tự khai và các văn bản khác, bị đơn ông Hoàng Ngọc M và đại diện theo uỷ quyền của ông M là ông Vũ Đình Th và ông Bùi Quang Tú, trình bày:

Ông Hoàng Ngọc M cho rằng việc khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th là không có căn cứ pháp luật, giữa ông và ông Th không có tranh chấp về việc chia thừa kế. Quá trình giải quyết để hàn gắn tình cảm thì gữa ông Th và ông M có thỏa thuận hòa giải về phân chia quyền sử dụng đất tại Biên bản hòa giải ngày 11/01/2021. Nhưng do ý kiến của bà Nông Thị Th, vợ ông M chưa thống nhất nên Biên bản hòa giải không thành.

Trong Văn bản trình bày về việc thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đối với Biên bản hòa giải thành ngày 11/1/2021, ông Hoàng Ngọc M trình bày:

Sau khi ký vào văn bản thỏa thuận ông thông báo cho vợ ông là bà Nông Thị Th và 2 con Hoàng Trinh A và Hoàng Ngọc Đức A, là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong vụ án biết nội dung thỏa thuận: Tuy nhiên bà Th và 2 con ông không đồng ý thỏa thuận tại biên bản hòa giải thành ngày 11/01/2021 vì bà Th là người bỏ công sức tôn tạo nhưng lại không được phát biểu ý kiến về nội dung hòa giải và không chấp nhận mức tiền 500.000.000đồng mà ông Th thanh toán cho ông. Vì vậy ông làm văn bản thay đổi ý kiến này đề nghị tòa án tiếp tục buổi hòa giả i khác và giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết, ngày 13/9/2021, bị đơn ông Hoàng Ngọc M có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện G thu thập mẫu so sánh có chữ ký của cụ Nguyễn Thị T trong hồ sơ đăng ký đất đai đối với thửa đất số 42 và 43, tờ bản đồ số 36 địa chỉ: 52 Hà Huy Tập, Y, G, H, Giấy chứng nhận số BK 557753 do Ủy ban nhân dân huyện G cấp ngày 03/5/2013. Theo yêu cầu của ông M, đại diện ủy quyền của ông M, Tòa án nhân dân huyện G đã trưng cầu Viện khoa học kỹ thuật hình sự Bộ công an và Phòng Kỹ thuật hình sự công an thành phố H giám định chữ ký T bản di chúc do ông Nguyễn Văn Th xuất trình. Các kết quả là: Kết luận giám định số 364/KL-C09(P5) ngày 23 tháng 02 năm 2022 của Viện khoa học kỹ thuật hình sự Bộ công an và Kết luận giám định số 3528/KL-KTHS ngày 01/06/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an thành phố H kết luận, chữ ký T và các mẫu so sánh Nguyễn Thị T do cùng một người ký, viết ra.

Nay tại Tòa ông M cho rằng Di chúc không có hiệu lực pháp luật, không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế theo di chúc của ông Th, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cùng quan điểm với phía bị đơn bà Nông Thị Th cùng các con ông M, bà Th là chị Chinh, anh Đức A, vợ anh Đức A chị N trình bày:

Để giữ được thửa đất như hiện nay mà ông Nguyễn Văn Thắn g khởi kiện thì với vợ chồng bà là vô vàn công sức, tiền của vợ chồng bà và các con. Tuy nhiên khi hòa giải ngày 11/1/2021, ông Th chỉ chấp nhận công sức tôn tạo duy trì thửa đất là 500triệu đồng là không thỏa đáng. Do vậy bà và ông M đã có văn bản giữ đề nghị xem xét lại. Di sản của cụ Nguyễn Thị T, bà đề nghị được hưởng công duy trì tôn tạo tính bằng đất chứ không phải gia đình nhận bằng tiền. Cụ thể phần di sản của bà Nguyễn Thị T phải chia 4 phần bằng nhau. Bà và gia đình bà 1 phần. Ngoài ra không yêu cầu gì khác.

Ngưi liên quan cùng quan điểm phía nguyên đơn bà Bùi Thị T (vợ ông Th) trình bày: Đây là tài sản của mẹ ông Th để lại riêng cho ông Th vì vậy bà làm đơn này xác nhận bà không có quyền lợi, nghĩa vụ cũng như công sức đóng góp gì đối với thửa đất này. Ông Th có toàn quyền định đoạt thửa đất được thửa kế theo quy định của pháp luật.

Ngưi có quyền lợi liên quan là con của cụ Nguyễn Thị T và cụ Hoàng Ngọc L (tức L) gồm bà Nguyễn Thị B và bà Nguyễn Thị Th, trình bày: Về huyết thống trong gia đình ông Th đưa ra là đúng. Mẹ các bà đã phân chia đất cho cậu M và cậu Th thì chúng tôi tôn trọng. Bản thân các bà khi về họp gia đình để mẹ các bà và em M đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng rất vui vẻ không đòi hỏi gì vì tình cảm gia đình mới là đáng quý. Đến nay, chúng các bà rất buồn khi chị em tôi phải đến đây vì các em trai khởi kiện nhau ra tòa án thế này. Các bà mong hai em cùng nhau bảo ban nhau để giải quyết vụ án sao cho hợp lý còn các em có quan tâm đến các bà hay không thì tùy tấm lòng của các em chứ các bà không yêu cầu đối với di sản chia thừa kế.

Bản án dân sự sơ thẩm số /2022/D T ngày 2 / /2022 của Tòa án nhân dân huyện G, thành phố H đã xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th về chia thừa kế theo di chúc đối với di sản của cụ Nguyễn Thị T để lại là ½ giá trị quyền sử dụng đất nằm trong quyền sử dụng, định đoạt chung thửa đất số 42-43, tờ bản đồ số 36, diện tích theo sổ đỏ là 672,6m2 đo thực tế 755,5m2 trong đó có 593,1m2 đất ở và 162,5m2 đất trồng cây lâu năm, tại địa chỉ số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, H, hiện do ông Hoàng Ngọc M và gia đình đang quản lý, sử dụng.

2. Xác nhận cụ Nguyễn Thị T chết ngày 2/10/2018. Trước khi mất có lập di chúc ngày 23/11/2015, có xác nhận của UBND xã B Dương, huyện Thăng B, tỉnh Quảng Nam. Di chúc hợp pháp theo quy định của pháp luật.

3. Xác nhận tài sản chung của cụ Nguyễn Thị T và ông Hoàng Ngọc M là quyền sử dụng, định đoạt chung thửa đất số 42-43, tờ bản đồ số 36, diện tích theo sổ đỏ là 672,6m2 đo thực tế 755,5m2 trong đó có 593,1m2 đất ở và 162,5m2 đất trồng cây lâu năm, tại địa chỉ số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, H, hiện do ông Hoàng Ngọc M và gia đình đang quản lý, sử dụng, có giá trị 19.415.000.000đồng. Th toán tài sản chung theo phần mỗi người tính ra giá trị là: 9.707.500.000đồng, tương đương 296,5m2 đất ở và 81,25m2 đất trồng cây lâu năm.

4. Khi phân chia ông Nguyễn Văn Th phần di sản cụ Nguyễn Thị T để lại thì trừ đi phần ông Th trích trả công sức tôn tạo, duy trì quản lý di sản cho ông M, bà Th là 18,3m2 đất ở.

Diện tích đất ông Nguyễn Văn Th được hưởng là 278,2m2 đất ở và 81,25m2 đất trồng cây lâu năm. Trên đất có lán và cây…thì ông Th được sở hữu. Phần đất ông Nguyễn Văn Th được xác định bởi các mốc, vị trí 1,2,30,29,21,22,23,24,26,27,28,1.

5. Xác nhận công sức tôn tạo, duy trì quản lý di sản… của ông Hoàng Ngọc M và gia đình, có giá trị 550.000.000đồng, tương đương 18,3m2 đất ở. Phần đất này được chia vào phần diện tích đất ở ông Hoàng Ngọc M và gia đình đang quản lý sử dụng.

6. Phần tài sản và di sản ông Hoàng Ngọc M và gia đình được hưởng là 314,8m2 đất ở và 81,25m2 đất trồng cây lâu năm. Trên phần đất ông Hoàng Ngọc M có Phần đất ông M và gia đình được nhận là phần đất trên có nhà 2,5 tầng do ông M và gia đình xây được định giá 567.424.000, công trình phụ sau nhà giá trị 24.917.000đồng, lán trước nhà trị giá 0 đồng, lán lợp tôn giá trị 6.058.000đồng; sân gạch xếp và cây trên đất; tường rào…các công trình này ông M và gia đình được quyền sở hữu, theo Biên bản định giá ngày 02/12/2021. Phần đất ông Hoàng Ngọc M và gia đình được xác định bởi các mốc, vị trí 2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,13,14,15,16,17,18,19,20,21,29,30,2.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không đồng ý với bản án dân sự sơ thẩm, Ông Hoàng Ngọc M, Bà Nông Thị Th kháng cáo toàn bộ bản án, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận di chúc của cụ T, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan giữ nguyên kháng cáo.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đồng tình với yêu cầu của bị đơn, sau khi phát biểu luận cứ bảo vệ cho bị đơn luật sư Ngô Thị Thu Thiện đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận bản di chúc của cụ T, đề nghị xem xét nguồn gốc đất của của cụ Hoàng Ngọc Ch từ đó không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

* Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

1. Về tố tụng:

Ông Hoàng Ngọc M, Bà Nông Thị Th kháng cáo bản án sơ thẩm số 49/2022/DSST ngày 28/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện G, thành phố H là trong thời hạn kháng cáo. Ông Hoàng Ngọc M và bà Nông Thị Th đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định. Do vậy kháng cáo của Ông Hoàng Ngọc M và bà Nông Thị Th là hợp lệ về hình thức.

Tại cấp phúc thẩm Hội đồng xét xử, Thẩm phán và thư ký đã tiến hành tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, thư ký Tòa án: Các thẩm phán tham gia phiên tòa và thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm.

- Về thẩm quyền: Bản án sơ thẩm của Tòa án huyện G bị kháng cáo. Căn cứ Điều 38 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án H đã thụ lý phúc thẩm và giải quyết đúng thẩm quyền.

- Về thụ lý và thông báo thụ lý: Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán đã Thông báo việc thụ lý cho đương sự và VKS theo đúng qui định tại điều 285 BLTTDS.

- Triệu tập đầy đủ những người tham gia tố tụng theo quy định tại điều 294 BLTTDS - Trình tự diễn biến tại phiên tòa đúng theo các quy định tại điều 297, điều 298, điều 302, điều 303, điều 305, điều 306 của BLTTDS;

2. Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn, bị đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các Điều 70, điều 71, điều 72, điều 73 BLTTDS năm 2015.

3. Về nội dung vụ án Sau khi phân tích, đánh giá về nội dung vụ án Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ Khoản 1 Điều 308 BLTTDS: Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2022/DSST ngày 28/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện G, thành phố H:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

au khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo trong thời hạn luật định. Người kháng cáo đã nộp tạm ứng án phí theo quy định. Vì vậy, kháng cáo là hợp lệ về hình thức.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về nguồn gốc thửa đất:

Về nguồn gốc đất đang tranh chấp:

Toàn bộ diện tích đất đang tranh chấp 762,5m2, đo thực tế 755,6m2 là thửa số số 42-43, tờ bản đồ số 36 địa chỉ số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, H: Theo tài liệu chứng cứ đương sự cung cấp, tài liệu chứng cứ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp là Văn bản số 1755/VPĐKĐĐ ngày 28/4/2020 của Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh G, H, hồ sơ kê khai quyền sử dụng đất đi kèm; Văn bản số 110/UBND-ĐCXD ngày 14/07/2020 của UBND thị trấn Y, đã xác định nguồn gốc thửa đất số 42+43 tờ bản đồ số 36 nêu trên là đất thổ cư của cụ Hoàng Ngọc Ch, có giấy tờ từ năm 1935. Cụ Hoàng Ngọc Ch cho con trai là Hoàng Ngọc L (tức L) và vợ là cụ Nguyễn Thị T sử dụng toàn bộ diện tích đất từ năm 1964 (không có thể hiện bằng văn bản). Cụ Hoàng Ngọc L (tức L) kết hôn với cụ Nguyễn Thị T trước năm 1960. Toàn bộ diện tích đất đang tranh chấp là của cụ Hoàng Ngọc L (tức L) và cụ Nguyễn Thị T được thừa hưởng từ các cụ để lại.

Về tài sản trên đất:

Tại biên bản định giá ngày 02/12/2020 và lời trình bày của các đương sự đều xác nhận: Nhà 2,5 tầng trên lợp tôn có diện tích xây dựng: 73,1m², diện tích sàn:

73,1m². Kết cấu nhà: Bê tông; Cấp hạng: Cấp 4, do vợ chồng ông M xây dựng, được định giá 567.424.000đồng; công trình phụ 24.917.000đồng; lán lợp tôn 6.058.000đồng; sân sếp gạch 49.688.000đồng và các cây trên đất do vợ chồng ông M tạo dựng.

Tài sản trên đất của cụ T không còn.

Các đương sự đều thừa nhận tài sản trên đất là do vợ chồng ông M, bà Th tạo dựng. Di sản của cụ T là quyền sử dụng đất nằm trong tổng diện tích 762,5m2, trong đó có 162,5m2 đất trồng cây lâu năm phía sau thửa đất, đo thực tế 755,6m2 là thửa số số 42-43, tờ bản đồ số 36 địa chỉ số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, G, H. Tài sản trên đất của cụ T với cụ Hoàng Ngọc L (tức L) không còn. Tại thời điểm cấp sổ do các đương sự không phân chia cụ thể về quyền sử dụng đất mỗi người có bao nhiêu, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cấp chung nên có căn cứ xem xét là cụ T và ông M có quyền sử dụng đất ngang nhau và xác định mỗi người có ½ quyền sử dụng, định đoạt quyền sử dụng đất.

[2.2]Xem xét giải quyết yêu cầu chia thừa kế theo di chúc của nguyên đơn:

[2.2.1]Xác định di sản chia thừa kế: Do năm 1963 cụ L (tức L) chết, không để lại di chúc. Ngày 03/05/2010, các thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ L đã họp thống nhất phân chia di sản của cụ L để lại. Theo đó thống nhất di sản của cụ L là quyền sử dụng đất chung với cụ T được giao cho cụ Nguyễn Thị T và con trai là Hoàng Ngọc M được toàn quyền sử dụng diện tích 762,5m2, (đo thực tế 755,6m2 ) ,thửa số số 42-43, tờ bản đồ số 36, địa chỉ số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, thành phố H. Cụ Nguyễn Thị T và con trai là Hoàng Ngọc M được Ủy ban nhân dân huyện G cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BK557753; số vào sổ cấp GCN: CH00099/813/QĐ-UBND mang tên Nguyễn Thị T, sinh năm 1932 và Hoàng Ngọc M, sinh năm 1962, ngày 03/05/2013.

Ngày 2/10/2018 cụ Nguyễn Thị T chết, như vậy di sản của cụ Nguyễn Thị T còn lại là ½ quyền sử dụng đất, ông Hoàng Ngọc M có ½ quyền sử dụng đất, trên diện tích 762,5m2, trong đó có 162,5m2 đất trồng cây lâu năm phía sau thửa đất, đo thực tế 755,6m2 là thửa số số 42-43, tờ bản đồ số 36 địa chỉ số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, G, H.

Xét nội dung kháng cáo của Ông Hoàng Ngọc M và Bà Nông Thị Th:

Ông Hoàng Ngọc M và Bà Nông Thị Th cho rằng bản di chúc ngày 23/11/2015 của cụ Nguyễn Thị T là không hợp pháp, xác định công duy trì, tôn tạo quyền sử dụng đất không đúng theo quy định của pháp luật:

Xem xét tính hợp pháp của di chúc: Cụ Nguyễn Thị T sinh 1932, mất 2/10/2018. Trước khi mất có lập di chúc ngày 23/11/2015 tại UBND xã B Dương, huyện Thăng B, tỉnh Quảng Nam, nôi dụng thể hiện:

“...Nay tôi lập bản di chúc để định đoạt tài sản của tôi như sau: Sau khi tôi qua đời, con trai tôi là Nguyễn Văn Th sinh: 12/6/1972 - Chứng minh nhân dân số: 205202167 do Công an tỉnh Quảng Nam cấp. Nơi đăng ký HKTT: Thôn 3, xã B Dương, huyện Thăng B, Quảng Nam. Hiện cư trú tại: Thôn 3, xã B Dương, huyện Thăng B, tỉnh Quảng Nam.

Sẽ được thừa hưởng toàn bộ di sản thừa kế thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp của tôi, do tôi để lại trong khối tài sản chung giữa tôi và ông Hoàng Ngọc M như đã nêu trên. Tôi chỉ để lại di sản thừa kế cho con trai là Nguyễn Văn Th, ngoài ra tôi không để lại di sản thừa kế của tôi cho bất cứ ai khác.

Để làm chứng cho việc lập di chúc, tôi có mời hai người làm chứng là: ông Phan Th Hạnh sinh năm 1885, CMND số 205448.268...do Công an Quảng Nam cấp ngày 29/4/2010, Hộ khẩu thường trú: Thôn 3, B Dương, Thăng B, Quảng Nam. Bà Phan Thị Ái Nghĩa sinh 1989, CMND số 205565482 do Công an Quảng Nam cấp ngày 03.10.2011, Hộ khẩu thường trú: Thôn 3, B Dương, Thăng B, Quảng Nam.

Hai người làm chứng nêu trên là do tôi tự lựa chọn và mời đến, họ không thuộc những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của tôi, không phải là người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan đến nội dung di chúc và họ có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.

Tôi đã nghe đọc lại bản di chúc, nội dung bản di chúc đã thể hiện đúng theo ý chí, nguyện vọng của tôi. Tôi không sửa đổi hoặc thêm bớt điều gì và đồng ý ký tên, điểm chỉ vào di chúc này trước sự có mặt của hai người làm chứng và của Ủy ban nhân dân xã B Dương, huyện Thăng B, tỉnh Quảng Nam”.

Như vậy, di chúc lập ngày 23/11/2015, về chủ thể thì người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép là đúng theo Điều 652 BLDS 2015. Về hình thức: Di chúc được lập thành văn bản, có hai người làm chứng cũng đúng theo quy định tại Điều 650 và Điều 658 BLDS 2005. Về nội dung: Di chúc ghi rõ ngày tháng, năm lập di chúc, họ tên người lập di chúc, người nhận di sản, di sản để lại.

Mặt khác, qúa trình giải quyết, ông M, đại diện ủy quyền của ông M cũng đã đề nghị giám định chữ ký của cụ T tại bản di chúc và đã được Viện khoa học hình sự Bộ Công an và phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H, kết luận chữ ký của cụ T là đúng, tài liệu đã được lưu trong hồ sơ. Hai thừa kế của cụ T là bà B, bà Th đều nhất trí di chúc của cụ T.

Do vậy, có căn cứ đầy đủ để xác định bản di chúc của cụ Nguyễn Thị T lập ngày 23/11/2015 về việc định đoạt để lại toàn bộ di sản của cụ T cho con trai là ông Nguyễn Văn Th được hưởng toàn bộ di sản của cụ T có hiệu luật pháp luật. Từ đó cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia thừa kế theo di chúc. Khi xem xét thì do các bên cùng có nhu cầu sử dụng quyền sử dụng đất do vậy cần chia bằng hiện vật, để đảm bảo quyền lợi cho các bên.

Xem xét quá trình sử dụng, duy trì, tôn tạo thửa đất:

Theo các đương sự trình bày thì nguồn gốc đất thì có cả đất ở vào đất ao. Quá trình quản lý, sử dụng thì ông M cùng gia đình đã bỏ ra nhiều công sức tôn tạo để có mặt bằng như hiện nay. Tại tòa bà Nông Thị Th vợ ông M cho rằng tôn cao phải từ 3 m đến 4m, toàn bộ thửa đất, tôn tạo nhiều giai đoạn nên không xác định cụ thể được. Thu thập chứng cứ tại Ủy ban nhân dân thị trấn Y và tổ dân phố thì đều được xác định gia đình có công tôn tạo nhiều nhưng không tính được cụ thể. Để đảm bảo quyền lợi cho ông M và bà Th thì xác định công tôn tạo đổ đất là cao 4m, giá tôn tạo 1m3 là 150.000đồng/1m3 trên tổng diện tích 755,5m2. Cụ thể tính 755,5m2x 4m x 150.000đồng/1m3 = 453.600.000đồng. Tại biên bản hòa giải ngày 11/01/2021, ông Th đồng ý tính công tôn tạo là 500.000.000đồng, tại phiên tòa đại diện ủy quyền của ông Th vẫn đồng ý tự nguyện tính công sức tôn tạo là 500.000.000đồng. Việc tự nguyện này của đương sự phù hợp pháp luật, có lợi cho ông M và gia đình vì vậy cần được xem xét chấp nhận. Do tôn tạo là toàn bộ diện tích đất nên ông M được hưởng ½ giá trị trong số 500.000.000đồng.

Mặt khác trước khi chia tài sản chung giữa ông M và cụ T để xác định di sản của cụ T thì cũng cần xem xét tính công sức duy trì quản lý di sản cho ông M, bà Th từ khi xác định tài sản chung đến nay. Việc xem xét tính toán cụ thể là không định lượng được, mặt khác vợ chồng ông M cũng sử dụng, khai thác tài sản chung. Quá trình giải quyết thì thực tế xác định từ những năm 2010 trở lại đây chủ yếu là khai thác di sản. Do vậy, nghĩ nên xem xét tính cho ông M, bà Th và gia đình công duy trì, quản lý di sản bằng số tiền là 300.000.000đồng.

Như vậy phần công sức tôn tạo, duy trì và quản lý di sản của ông M, bà Th, gia đình được xác định là 250.000.000đồng + 300.000.000đồng = 550.000.000đồng. Khi xem xét thì cần tính tiền công sức tôn tạo, duy trì quản lý di sản ra quyền sử dụng đất và tính cho ông M, bà Th bằng đất ở là phù hợp đảm bảo quyền lợi cho ông M, bà Th. Định giá đất ở là 30.000.000đồng/m2 do vậy phần công sức tôn tạo, duy trì và quản lý di sản của gia đình ông M, bà Th là 550.000.000đồng sẽ tương đương 18,3m2 đất ở.

[2.4] Giải quyết chia cụ thể yêu cầu của đương sự:

Do diện đất tổng diện tích theo sổ đỏ cấp là 762,5m2, nhưng đo thực tế là 755,6m2, hiện đất đã có gianh giới liền kề, các đương sự đồng ý lấy số đo thực tế để giải quyết nên diện tích tính để giải quyết là 755,6m2 tại thửa số số 42-43, tờ bản đồ số 36 địa chỉ số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, trong đó có 162,5m2 đất trồng cây lâu năm phía sau thửa đất. Như đã phân tích ở trên quyền sử dụng chung là của cụ T, ông M mỗi người có phần như nhau. Do vậy diện tích ở còn lại thực tế là 755,6m2 -162,5m2 = 593,1m2 đất ở và 162,5m2 đất trồng cây lâu năm. Chia quyền sử dụng thì cụ Nguyễn Thị T và ông Hoàng Ngọc M mỗi người có quyền sử dụng đất như sau: 593,1m2 đất ở và 162,5m2 đất trồng cây lâu năm : 2 = 296,5m2 đất ở và 81,25m2 đất trồng cây lâu năm. Tính ra giá trị tài sản là: 296,5m2 đất ở x 30.000.000đồng/1m2 = 8.895.000.0000đồng và 81,25m2 đất trồng cây lâu năm x 10.000.000đồng/1m2 = 812.500.000đồng. Tổng giá trị tài sản của mỗi người là:

9.707.500.000đồng.

Phần của cụ T được định đoạt cho ông Th nên ông Th được hưởng. Nhưng, do xem xét ông Th phải tính trích công sức duy trì, quản lý di sản và công tôn tạo cho ông M và bà Th như đã tính là 18,3m2 đất ở, nên diện tích đất ông Th được hưởng còn lại là 278,2m2 đất ở và 81,25m2 đất trồng cây lâu năm.

[2.4.1] Phần chia cụ thể quyền sử dụng đất cho ông Hoàng Ngọc M và ông Nguyễn Văn Th như sau:

Chia cho ông Hoàng Ngọc M và gia đình diện tích 296,5m2 đất ở và 81,25m2 đất trồng cây lâu năm + 18,3m2 đất ở = 314,8m2 đất ở và 81,25m2 đất trồng cây lâu năm. Phần đất ông M và gia đình được nhận là phần đất trên có nhà 2,5 tầng do ông M và gia đình xây được định giá 567.424.000 đồng, công trình phụ sau nhà giá trị 24.917.000đồng, lán trước nhà trị giá 0 đồng, lán lợp tôn giá trị 6.058.000đồng; sân gạch xếp và cây trên đất; tường rào…các công trình này ông M và gia đình được quyền sở hữu, theo Biên bản định giá ngày 02/12/2021.

Ông Nguyễn Văn Th được hưởng phần quyền sử dụng đất của Nguyễn Thị T để lại có diện tích 278,2m2 đất ở và 81,25m2 đất trồng cây lâu năm. Trên đất có tường rào trị giá 0 đồng và lán, một phần sân xếp gạch, một số cây do ông M và gia đình trồng nhưng do ông Th đã tự nguyện thanh toán hơn phần giá trị tôn tạo nên tính cho ông Th không phải đền bù cho ông M và gia đình, ông Th được quyền sở hữu, sử dụng tài sản trên đất.

Phần phân chia cho ông Hoàng Ngọc M và gia đình và phần phân chia cho ông Nguyễn Văn Th, có số đo các chiều dài, rộng, cạnh, vị trí, dấu, mốc (được xác định theo sơ đồ kèm theo bản án sơ thẩm).

[5] Phần diện tích đất các bên được giao theo bản án thì các bên sẽ có quyền và nghĩa vụ liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh, tách thửa và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Điều 98, Điều 99,100 Luật đất đai 2013 và Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 thi hành luật đất đai 2013.

Những phân tích nêu trên cũng là căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên về đường lối giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm.

Tuy nhiên trong phần quyết định của bản án sơ thẩm tuyên chưa rõ ràng, phần quyết định sau có phần lặp lại của phần quyết định trước do vậy cần sửa bản án sơ thẩm về cách tuyên án.

[6] Về án phí:

- Về án phí sơ thẩm: Ông Th phải chịu án phí sơ thẩm đối với phần giá trị được hưởng từ tài sản được chia thừa kế. Ông M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về phần giá trị xác định phân chia tài sản chung.

Án phí phúc thẩm: Do giữ nguyên bản án sơ thẩm nên người kháng cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn chưa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 2 Điều 308 BLTTDS: Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 49/2022/DSST ngày 28/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện G, thành phố H:

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 2 Điều 227; các Điều 235; Điều 266; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 170; Điều 195; Điều 197; Điều 219; Điều 223; Điều 224; Điều 256; Điều 688; Điều 689; Điều 691; Điều 697; Điều 698; Điều 699; Điều 700; Điều 701; Điều 702 BLDS 2005;

Các Điều 212; Điều 218; Điều 217; Điều 220; Điều 624; Điều 625; Điều 628; Điều 630; Điều 631; Điều 634; Điều 636 BLDS 2015;

Căn cứ Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình 1959;

Căn cứ Điều 29; Diều 33; Điều 35 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Các Điều 166; Điều 167; Điều 169 Luật đất đai 2013;

Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th về chia thừa kế theo di chúc đối với di sản của cụ Nguyễn Thị T để lại là ½ giá trị quyền sử dụng đất mang tên Cụ Nguyễn Thị T và ông Hoàng Ngọc M được Ủy ban nhân dân huyện G, H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất BK557753 ngày 03/05/2013, thửa số 42+43 tờ bản đồ số 36, địa chỉ số 52 đường Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, thành phố H, diện tích 762,5m2, hình thức sử dụng: Riêng 762,5m2, mục đích sử dụng: Đất ở đô thị 600m2; Đất trồng cây lâu năm: 162,5m2. Thời hạn sử dụng: Đất đô thị: Lâu dài. Đất trồng cây lâu năm: 50 năm.

2. Xác nhận cụ Nguyễn Thị T chết ngày 2/10/2018. Xác định di chúc cụ Nguyễn Thị T lập ngày 23/11/2015, có xác nhận của UBND xã B Dương, huyện Thăng B, tỉnh Quảng Nam, là di chúc hợp pháp theo quy định của pháp luật.

3. Xác định cụ Nguyễn Thị T và ông Hoàng Ngọc M có quyền sử dụng chung thửa đất số 42-43, tờ bản đồ số 36, diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 672,6m2 ,đo thực tế 755,5m2 trong đó có 593,1m2 đất ở và 162,5m2 đất trồng cây lâu năm, tại địa chỉ số 52 Hà Huy Tập, thị trấn Y, huyện G, H, hiện do ông Hoàng Ngọc M và gia đình đang quản lý, sử dụng, có giá trị 19.415.000.000đồng. Th toán tài sản chung theo phần, mỗi người tính ra giá trị là: 9.707.500.000đồng, tương đương 296,5m2 đất ở và 81,25m2 đất trồng cây lâu năm.

4. Xác định công sức tôn tạo, duy trì quản lý di sản thừa kế của cụ Nguyễn Thị T cho ông Hoàng Ngọc M và Bà Nông Thị Th có giá trị 550.000.000đồng, tương đương 18,3m2 đất ở. Phần đất này được chia nhập vào phần diện tích đất ở ông Hoàng Ngọc M và gia đình đang quản lý sử dụng.

5. Chia cho ông Nguyễn Văn Th được hưởng phần di sản thừa kế của cụ Nguyễn Thị T, sau khi trừ công sức tôn tạo, duy trì quản lý di sản thừa kế của cụ Nguyễn Thị T cho ông Hoàng Ngọc M và Bà Nông Thị Th là 278,2m2 đất ở và 81,25m2 đất trồng cây lâu năm. Trên đất có lán và cây…thì ông Th được sở hữu. Phần đất ông Nguyễn Văn Th được xác định bởi các mốc, vị trí 1,2,30,29,21,22,23,24,26,27,28,1.

6. Xác định ông Hoàng Ngọc M được sử dụng diện tích 296,5m2 đất ở + 18,3m2 đất ở do có công sức tôn tạo, duy trì quản lý di sản thừa kế của cụ Nguyễn Thị T = 314,8m2 đất ở và 81,25m2 đất trồng cây lâu năm, trên đất có nhà 2,5 tầng do ông M và gia đình xây có giá trị 567.424.000 đồng, công trình phụ sau nhà giá trị 24.917.000đồng, lán trước nhà trị giá 0 đồng, lán lợp tôn giá trị 6.058.000đồng; sân gạch xếp và cây trên đất; tường rào…các công trình này ông M và gia đình được quyền sở hữu.

Phần đất của ông Hoàng Ngọc M và gia đình được xác định bởi các mốc, vị trí 2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,13,14,15,16,17,18,19,20,21,29,30,2.

(Số đo các chiều dài, rộng, cạnh, vị trí, dấu, mốc được xác định theo sơ đồ kèm theo bản án).

Các đương sự không phải thanh toán khoản chênh lệch về tài sản cho nhau.

7. Các bên đương sự có quyền và nghĩa vụ liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh, tách thửa và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo theo quyết định của bản án và quy định của pháp luật.

Trường hợp ông Hoàng Ngọc M và gia đình không tự nguyện cùng ông Nguyễn Văn Th yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quyết định của bản án và quy định của pháp luật thì ông Nguyễn Văn Th có quyền và nghĩa vụ đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp mới điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quyết định của bản án và quy định của pháp luật.

8. [6] Về án phí:

- Về án phí sơ thẩm: Ông Th phải chịu 117.707.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ 21.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo lai số AA/2010/0005022 ngày tại Chi cục thi hành án dân sự huyện G, nay còn phải nộp tiếp 96.707.500 đồng. Ông M phải chịu 117.707.500 đồng án phí sơ thẩm về phần giá trị xác định phân chia tài sản chung.

* Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm về cách tuyên nên các đương sự có đơn kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Trả lại ông M số tiền 300.000 án phí dân sự phúc thẩm đã nộp tại biên lai số AA/2020/0073421 ngày 08/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện G nhưng được giữ lại để đối trừ vào tiền án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại bà Th số tiền 300.000 án phí dân sự phúc thẩm đã nộp tại biên lai số AA/2020/0073420 ngày 08/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện G.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

Trường hợp bản án, quyết định của tòa án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp chia thừa kế theo di chúc số 535/2022/DS-PT

Số hiệu:535/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:21/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về