Bản án về tranh chấp chia thừa kế tài sản là quyền sử dụng đất số 18/2021/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 18/2021/DS-PT NGÀY 29/06/2021 VỀ TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 29 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hưng Yên xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 18/2021/TLPT-DS ngày 10 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 20/2020/DS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Văn Lâm bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐ - PT ngày 14 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đào Thị Nh, sinh năm 1976; trú tại: Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L, (có mặt).

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn O, sinh năm 1961 và bà Tr.Th.M, sinh năm 1967 (đều có mặt).

Đều trú tại: Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L, tỉnh Hưng Yên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Đ.Th.Kh, sinh năm 1969; trú tại: Thôn Nh.L, xã Tr.Tr, huyện V.L, tỉnh Hưng Yên (có mặt).

- Bà Đ.Th.Kh1, sinh năm 1971; trú tại: Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L, (có mặt).

- Bà Đào Thị Nh, sinh năm 1974; trú tại: Thôn H.Th, xã L.H, huyện V.L, tỉnh Hưng Yên (có mặt).

- Bà Đ.Th.H, sinh năm 1960; trú tại: Thôn Tr.Tr, xã Tr.Tr, huyện V.L, (vắng mặt).

- Anh Ng.Ng.M, sinh năm 2000 và anh Ng.Ng.A, sinh năm 1992; đều trú tại: Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L, (đều có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai của nguyên đơn bà Đào Thị Nh trình bày: Bố bà Nh là cụ Đ.T.Ch (tên thường gọi là B), chết năm 1983. Cụ Ch có vợ là cụ Nh(cụ Nh chết năm 2008). Cụ Ch và cụ Nh có 05 người con chung. Trong thời gian sống với cụ Nh, nhưng thỉnh thoảng cụ Ch qua lại với cụ Đ.Th.C (cụ C chết năm 2014). Cụ Ch và cụ C có bốn người con chung là: Bà Đ.Th.Kh, Bà Đ.Th.Kh, Bà Đào Thị Nh và bà Đào Thị Nh. Trước khi đến với cụ Ch, cụ C kết hôn với cụ Bí (Cụ Bí mất năm 1962), sinh được ông Nguyễn Văn O. Khi còn sống cụ Ch sống với cụ Nh và các con của hai cụ tại nhà và đất có nguồn gốc cha ông cụ Ch để lại hiện nay bà H là một trong số các người con của cụ Ch và cụ Nh quản lý sử dụng. Cụ C sống tại thửa đất có nguồn gốc của bố mẹ đẻ của cụ C cho cụ C nay là thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18 diện tích 680 m2 tại Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L,.

Bà Nh xác định di sản mà cụ C, cụ Ch để lại gồm có 680 m2 đất tại thửa số 121 tờ bản đồ số 18, trong đó 300 m2 là đất ở, còn lại 380 m2 là đất trồng cây lâu năm; Địa chỉ thửa đất tại Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L,. Ngày 28/12/2007 UBND huyện Văn Lâm đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 225543 mang tên cụ Đ.Th.C. Trên thửa đất trước kia bố mẹ bà có xây dựng một ngôi nhà diện tích 70 m2 , nhà bếp và công trình phụ khoảng 30 m2 . Sau đó vào đầu năm 2017, ông O đã phá bỏ nhà cũ và xây dựng một ngôi nhà mới như hiện nay. Hiện tại vợ chồng ông O, bà Mùi quản lý toàn bộ di sản của bố mẹ bà để lại.

Bà Nh xác định trong thời gian sinh sống cùng với bố mẹ trên thửa đất này từ nhỏ cho đến khi đi lấy chồng vào năm 2000, bà đã có những đóng góp trong việc giữ gìn, tôn tạo nhà đất, đóng góp cho sự phát triển và ổn định của gia đình.

Hiện tại hoàn cảnh của gia đình bà rất khó khăn, vợ chồng bà phải đi thuê nhà để ở. Bà đã nhiều lần bàn bạc với các anh chị em ruột để cắt cho bà một phần diện tích đất mà bố mẹ của bà để lại, để vợ chồng bà xây gian nhà làm chỗ nương thân nhưng các anh chị của bà đều không đồng ý. Vì vậy bà Nh khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết chia thừa kế theo pháp luật và chia công sức đóng góp trong việc gìn giữ, tôn tạo thửa đất. Đối với bản di chúc ông O cung cấp cho Tòa án bà xác định di chúc là không hợp pháp nên bà không đồng ý.

Bị đơn ông Nguyễn Văn O trình bày: Cụ Đ.Th.C kết hôn với cụ Ng.V.B, hai cụ có hai người con chung là bà Ng.Th.Th (đã chết từ khi còn nhỏ) và ông O. Năm 1962 cụ B chết. Năm 1968 cụ C làm bạn với cụ Ch và sinh ra các người con như bà Nh đã trình bày.

Trước khi cụ Ch làm bạn với cụ C thì cụ Ch đã có vợ là cụ Ng.Th.Nh. Cụ Ch và cụ Nh có 05 người con chung.

Cụ Ch không chung sống với cụ C mà chung sống với cụ Nh và 05 người con của cụ Nh và cụ Ch. Cụ Ch chỉ “đi lại” với cụ C mà hai người không thường xuyên sinh sống với nhau, không tạo lập tài sản gì chung. Tài sản là nhà và đất của cụ Ch, cụ Nh để lại con gái của cụ Ch, cụ Nh là bà H quản lý, sử dụng. Tài sản là nhà và đất của cụ C là của riêng cụ C không liên quan gì với cụ Ch và cụ Nh.

Ông O xác định thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18 thôn Tr.T, xã Tr.Tr cụ C được thừa hưởng từ bố mẹ đẻ của cụ là cụ Đ.V.Đ và cụ C.Th.Th. Cụ C là con đẻ duy nhất của cụ Đ và cụ Th. Thửa đất là di sản của riêng một mình cụ C, không phải là di sản chung của cụ C và cụ Ch.

Tháng 01/2009, cụ C đã lập di chúc cho ông O toàn bộ thửa đất số 121, khi lập di chúc có hai người chứng kiến là ông Đ.V.Ch và bà Ng.Th.M, UBND xã Tr.Tr đã chứng thực bản di chúc. Di chúc là hợp pháp nên ông không đồng ý yêu cầu của bà Nh đề nghị chia di sản thừa kế theo pháp luật.

Đối với yêu cầu của bà Nh đề nghị xem xét và chia công sức cho bà trong việc duy trì, gìn giữ, tôn tạo nhà đất, đóng góp cho sự phát triển và ổn định của gia đình, ông O xác định bà Nh không có công sức gì.

Ông O đề nghị bà Nh phải trả lại cho ông giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất cho gia đình ông do bà Nh đang quản lý để ông làm thủ tục xác nhận quyền thừa kế theo quy định của pháp luật.

Lời khai của bị đơn là bà Tr.Th.M thống nhất như quan điểm của ông O.

Lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nh1, bà Kh và bà Kha2 thống nhất với lời khai và quan điểm của ông O. Bà Nh, bà Khương, bà Kh đều có quan điểm không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Nh và xác định cụ C đã để lại di chúc cho ông O toàn bộ thửa đất số 121 tờ bản đồ số 18.

Lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Bà Đ.Th.H thống nhất như lời khai của ông O về quan hệ gia đình.Bà H khai cụ Ch và cụ Nh có 05 người con chung là Bà Đ.Th.H, bà Đ.Th.H, sinh năm 1964 (hiện đang sống tại tỉnh Đồng Nai), bà Đ.Th.Q sinh năm 1968 (hiện đang sinh sống tại huyện V.G, tỉnh Hưng Yên), bà Đ.Th.L, sinh năm 1957 (hiện đang sinh sống tại huyện M.H, tỉnh Hưng Yên) và bà Đ.Th.L2, sinh năm 1975 (hiện đang sinh sống tại xã Đ.Đ, huyện V.L, tỉnh Hưng Yên). Bà H từ chối cung cấp địa chỉ cụ thể và số điện thoại của các em bà. Bà H xác định khi còn sống cụ Ch ở cùng với mẹ của bà là cụ Nh và chỉ đi lại với cụ C mà không thường xuyên ở với cụ C. Tài sản là nhà đất của cụ C và nhà, đất của cụ Ch, cụ Nh không liên quan gì. Tài sản là nhà đất cụ Ch, cụ Nh để lại có nguồn gốc của cha ông cụ Ch để lại, hiện nay bà H đang trực tiếp quản lý, sử dụng. Tài sản là nhà và đất cụ C để lại (thửa đất hiện đang có tranh chấp thừa kế) là tài sản riêng của cụ C, không liên quan gì với cụ Ch, cụ Nh. Bà H xác định bà đã thông báo cho tất cả các chị em của bà biết là Tòa án đang giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất giữa các con của cụ Ch và cụ C nhưng bà và tất cả các em của bà đều không có bất kỳ một yêu cầu nào về quyền lợi đối với khối tài sản cụ C để lại.

Lời khai của anh Ng.Ng.M, anh Ng.Ng.A đều thể hiện: Anh M, anh Anh là con của ông O và bà Mùi. Anh M, Anh Ng.A cùng với bố mẹ sinh sống trên thửa đất cụ C để lại. Anh M, Anh Ng.A không có yêu cầu gì về quyền lợi đối với nhà và đất mà bà Nh yêu cầu chia thừa kế.

Tại bản án số 20/2020/DS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên đã quyết định:

1. Căn cứ vào khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Điều 646, Điều 650, Điều 652, Điều 653, Điều 654, Điều 657 và Điều 658; Điều 733 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 cña ñy ban Thường vô Quèc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

2. Tuyên xử:

2.1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đào Thị Nh đề nghị chia thừa kế theo pháp luật và chia công sức đối với thửa đất số 121 tờ bản đồ số 18, diện tích 680 m2 tại Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L,.

2.2/ Xác định Bản di chúc do cụ Đ.Th.C lập được chứng thực tại UBND xã Trưng Trắc ngày 05/01/2009 là hợp pháp. Nội dung di chúc ghi nhận cụ Đ.Th.C cho ông Nguyễn Văn O toàn bộ thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18 diện tích 680 m2 tại Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L,.

Buộc bà Đào Thị Nh phải trả cho ông Nguyễn Văn O giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được UBND huyện Văn Lâm cấp cho cụ Đ.Th.C ngày 28/12/2007 đối với thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18 diện tích 680 m2 tại Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L,.

Ông O được quyền làm thủ tục tại Cơ quan có thẩm quyền để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18 diện tích 680 m2 Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L,.

3. Về án phí: Bà Đào Thị Nh phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 33.200.000đ (ba mươi ba triệu hai trăm nghìn đồng). Đối chiếu với số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.000.000đ (năm triệu đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 014794 ngày 18/8/2007 của chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Lâm, bà Nh còn phải nộp 28.200.000đ (hai mươi tám triệu, hai trăm nghìn đồng).

4.Về chi phí tố tụng: Bà Đào Thị Nh phải chịu tiền chi phí tố tụng là 5.000.0000đ (năm triệu đồng). Đối trừ với số tiên tạm ứng chi phí tố tụng bà Nh đã nộp 10.000.00đ (mười triệu đồng) bà Nh đã nộp đủ tiền chi phí tố tụng. Trả lại bà Nh số tiền chi phí tố tụng 5.000.000đ (năm triệu đồng).

Ngày 01tháng 12 năm 2021 bà Đào Thị Nh kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại cấp phúc thẩm: Các đương sự vẫn giữ nguyên quan điểm đã trình bày trên. Quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Hưng Yên:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, xác định đúng tư cách của những người tham gia tố tụng. Đối với người tham gia tố tụng đã chấp hành quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Xác định Bản di chúc do cụ Đ.Th.C lập được chứng thực tại UBND xã Trưng Trắc ngày 05/01/2009 là hợp pháp. Nội dung di chúc ghi nhận cụ Đ.Th.C cho ông Nguyễn Văn O toàn bộ thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18 diện tích 680 m2 tại Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L,.

Vì vậy không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đào Thị Nh đề nghị chia thừa kế theo pháp luật và chia công sức đối với thửa đất số 121 tờ bản đồ số 18, diện tích 680 m2 tại Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L,.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét, đánh giá toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Bà Đ.Th.H vắng mặt, nhưng có yêu cầu giải quyết vắng mặt, căn cứ vào khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xử vắng mặt bà H là phù hợp.

[2] Về nội dung: Đối với yêu cầu kháng cáo của bà Đào Thị Nh:

[2.1] Về yêu cầu chia di sản thừa kế theo pháp luật đối với thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18 đã được UBND huyện Văn Lâm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cụ Đ.Th.C ngày 28/12/2007.

[2.1.1] Xét về quan hệ gia đình: Mặc dù cụ Ch có quan hệ với cụ C từ năm 1968 và sinh được 4 người con là bà Khương, bà Kh, bà Nh và bà Nh, tuy nhiên trước khi đến với cụ C thì cụ Ch đã có vợ là cụ Nh cho đến thời điểm cụ Ch chết năm 1983, giữa cụ Nh và cụ Ch vẫn là vợ chồng. Mặt khác các đương sự đều xác định cụ Ch chỉ có qua lại với cụ C còn chủ yếu cụ Ch sống với cụ Nh và các con chung của cụ Ch và cụ Nh, nên theo quy định tại Điều 1 và Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì : Nhà nước bảo đảm việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng…Cấm người đang có vợ có chồng kết hôn với người khác. Do đó, giữa cụ Ch và cụ C không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

[2.1.2] Xét về nguồn gốc di sản: Các đương sự đều thừa nhận thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18, diện tích 680 m2 đã được UBND huyện Văn Lâm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cụ Đ.Th.C ngày 28/12/2007 có nguồn gốc từ bố mẹ đẻ của cụ C để lại cho cụ C, phù hợp với cung cấp của UBND xã Trưng Trắc xác định tại bản đồ qua các thời kỳ cụ C là người đứng tên chủ sử dụng, và như phân tích tại mục [2.1.1] trên nên thuộc quyền sử dụng riêng của cụ C.

Xét bản di chúc do ông Nguyễn Văn O xuất trình có nội dung cụ C lập di chúc để định đoạt thửa đất trên cho con trai là ông O. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo lời khai của ông Phả phó chủ tịch UBND xã là người chứng thực vào bản di chúc và lời khai của ông Cừ là cán bộ tư pháp đều xác định ngày 05/01/2009 khi còn sống cụ C có đến UBND xã làm thủ tục lập di chúc có sự chứng kiến của ông Chín và bà Mai. Khi đến làm thủ tục ông Chín là người đưa cụ C đến, cán bộ tư pháp là ông Cừ là người tiếp nhận làm thủ tục và đọc lại bản di chúc cho cụ C nghe cụ C công nhận là đúng và cụ C có ký tên và điểm chỉ vào bản di chúc và ông Phả ký tên đóng dấu với tư cách là người có thẩm quyền chứng thực. Những người trên đều xác định vào thời điểm cụ C lập di chúc tinh thần cụ C minh mẫn sáng suốt, tài sản là mảnh đất có số thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18 diện tích 680 m2 tại Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L, thuộc quyền sử dụng của cụ C. Như vậy, về trình tự thủ tục lập di chúc của cụ C tuân theo quy định tại Điều 658 Bộ luật dân sự năm 2005, Về phía Bà Nh, bà Khương, bà Kh là con của cụ C cũng xác định khi cụ C còn sống đã lập di chúc để lại toàn bộ tài sản trên cho ông O nên di chúc do cụ C lập ngày 05/01/2009 tại UBND xã Tr.Tr là hợp pháp. . Do đó mảnh đất có số thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18 diện tích 680 m2 tại Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L, ông O là người được hưởng thừa kế theo di chúc của cụ C, và như vậy, yêu cầu kháng cáo của bà Nhưng cho rằng di chúc do cụ C lập là không hợp pháp, yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật là không có căn cứ chấp nhận.

[2.2] Yêu cầu chia công sức của bà Đào Thị Nh: Bà Nh xác định có công sức đóng góp trong việc tôn tạo thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18 từ khi bà ở nhà chưa đi lấy chồng nhưng bà Nh không xác định công sức cụ thể là gì, trị giá là bao nhiên tiền và cũng không cung cấp được chứng cứ gì chứng minh có việc bà Nh đóng góp công sức. Trong khi đó bị đơn là ông O và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là con của cụ C gồm bà Kh, bà Kh2 và bà Nh đều xác định bà Nh không có công sức gì đối với di sản cụ C để lại, hơn nữa các đương sự đều xác định sau khi cụ C mất ông O là người quản lý di sản từ đó đến nay. Do đó kháng cáo chia công sức của bà Nh là không có cơ sở chấp nhận.

[3] Về án phí: Bà Nh khởi kiện chia di sản thừa kế theo pháp luật và yêu cầu công sức nhưng không có cơ sở để chấp nhận, nhưng cấp sơ thẩm lại tính trị giá toàn bộ tài sản làm căn cứ để tính án phí để buộc bà Nh phải chịu là không phù hợp nên cấp phúc thẩm chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Nh để tính mức án phí mà bà Nh phải chịu theo quy định của pháp luật. Như vậy, bà Đào Thị Nh kháng cáo có cơ sở chấp nhận một phần nên bà Nh không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 646, Điều 650, Điều 652, Điều 653, Điều 654, Điều 657 và Điều 658; Điều 733 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 147 và Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 4 Điều 26; khoản 7 Điều 27 quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Xử:

1- Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Đào Thị Nh.

2 - Sửa một phần bản án sơ thẩm số 20/2020/DS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên như sau:

2.1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đào Thị Nh đề nghị chia thừa kế theo pháp luật và chia công sức đối với thửa đất số 121 tờ bản đồ số 18, diện tích 680 m2 tại Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L,.

2.2/ Xác định Bản di chúc do cụ Đ.Th.C lập được chứng thực tại UBND xã Trưng Trắc ngày 05/01/2009 là hợp pháp. Nội dung di chúc ghi nhận cụ Đ.Th.C cho ông Nguyễn Văn O được sử dụng toàn bộ thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18 diện tích 680 m2 tại Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L,.

Buộc bà Đào Thị Nh phải trả cho ông Nguyễn Văn O giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được UBND huyện V.L cấp cho cụ Đ.Th.C ngày 28/12/2007 đối với thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18 diện tích 680 m2 tại Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L,.

Ông O được quyền làm thủ tục tại Cơ quan có thẩm quyền để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 121, tờ bản đồ số 18 diện tích 680 m2 Thôn Tr.T, xã Tr.Tr, huyện V.L,.

3. Về án phí: Bà Đào Thị Nh phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm; Bà Đào Thị Nh không phải chịu án phí phúc thẩm. Hoàn trả bà Đào Thị Nh số tiền 300.000đ tạm ứng án phí phúc thẩm bà Nh đã nộp theo Biên lai thu số 0000590, ngày 07/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Đối trừ với số tiền án phí sơ thẩm bà Nh phải chịu, bà Đào Thị Nh đã nộp đủ án phí. Hoàn trả bà Nh 5.000.000đ tiền tạm ứng án phí sơ thẩm bà Nh đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 014794 ngày 18/8/2007 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Văn Lâm.

4. Về chi phí tố tụng: Bà Đào Thị Nh phải chịu tiền chi phí tố tụng là 5.000.0000đ (năm triệu đồng). Đối trừ với số tiên tạm ứng chi phí tố tụng bà Nh đã nộp 10.000.00đ (mười triệu đồng) bà Nh đã nộp đủ tiền chi phí tố tụng. Trả lại bà Nh số tiền chi phí tố tụng 5.000.000đ (năm triệu đồng) Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp chia thừa kế tài sản là quyền sử dụng đất số 18/2021/DS-PT

Số hiệu:18/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hưng Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về