Bản án về tranh chấp chia thừa kế số 445/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 445/2023/DS-PT NGÀY 11/09/2023 VỀ TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ

Ngày 11 tháng 9 năm 2023 , tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 15/2023/TLPT-DS ngày 13 tháng 01 năm 2023 về việc “tranh chấp chia thừa kế”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 19/2022/DS-ST, ngày 29/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 249/2023/QĐ-PT ngày 05 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1939 (có mặt tại phiên tòa);

Địa chỉ: Thôn Tr, Cụm 2, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị S:

Ông Quách Thành L - Luật sư Công ty Luật TNHH L thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; Địa chỉ: Phòng 3074, tòa nhà 18 T1, số 46 đường L, quận Th Xuân, thành phố Hà Nội (ông L có mặt tại phiên tòa).

Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng Q, sinh năm 1983 (có mặt tại phiên tòa);

Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1956 (vắng mặt tại phiên tòa);

Cùng địa chỉ: Xóm Động, thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, Hà Nội. Anh Nguyễn Trọng Q là người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Th.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

3.1. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1946 (vắng mặt tại phiên tòa).

Địa chỉ: Thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.

3.2. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1950 (vắng mặt tại phiên tòa).

Địa chỉ: Cụm 12, xã T, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.

3.3. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960 (có mặt tại phiên tòa).

Địa chỉ: Thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bà H là ông Chu Văn Ha, Luật sư Công ty Luật TNHH S thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; địa chỉ: Số 7 ngõ 25 đường T, Tr Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội (ông Ha có mặt tại phiên tòa).

3.4. Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1980 (vắng mặt tại phiên tòa).

Địa chỉ: P 3110 A1.1 nhà THT NEWCITY L, Kim Chung, Di Trạch, Hoài Đức, thành phố Hà Nội.

3.5. Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1986 (vắng mặt tại phiên tòa).

Địa chỉ: 1/97 Nguyễn H, Khu 12, phường N, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

3.6. Chị Nguyễn Thị Ly Đ, sinh năm 1986 (vắng mặt tại phiên tòa).

Địa chỉ: Cụm 2, thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội,

3.7. Cháu Nguyễn Trọng K, sinh năm 2008 (vắng mặt tại phiên tòa).

Địa chỉ: Cụm 2, thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội

3.8. Cháu Nguyễn Trọng Kh, sinh năm 2012 (vắng mặt tại phiên tòa).

Địa chỉ: Cụm 2, thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Trọng K và cháu Nguyễn Trọng Kh là anh Nguyễn Trọng Q, sinh năm 1983 (là bố đẻ) và chị Nguyễn Thị Ly Đ, sinh năm 1986 (là mẹ đẻ); cùng địa chỉ: Cụm 2, thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội (anh Q có mặt tại phiên tòa).

Đại diện theo ủy quyền của chị Nguyễn Thị Th, chị Nguyễn Thị Th, chị Nguyễn Thị Ly Đ là anh Nguyễn Trọng Q, sinh năm 1983; Địa chỉ: Thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội (anh Q có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - bà Nguyễn Thị S và người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Về huyết thống: Cụ Nguyễn Trọng S (chết ngày 10/5/1990) và cụ Nguyễn Thị U (chết ngày 26/10/2002).

Cụ S và cụ U sinh được 05 người con gồm:

- Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1939.

- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1946.

- Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1950.

- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960.

- Ông Nguyễn Trọng Mùi (chết ngày 26/5/2018). Ông Nguyễn Trọng M có vợ là bà Nguyễn Thị Th và có 04 người con gồm: Chị Nguyễn Thị Th, anh Nguyễn Trọng Q, chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Trọng Quyết (chết năm 2011) có vợ đã đi lấy chồng khác và không có con. Anh Q có vợ là chị Nguyễn Thị Ly Đ và hai con là cháu Nguyễn Trọng K, sinh năm 2008 và cháu Nguyễn Trọng Kh, sinh năm 2012.

Ngoài 05 người con có tên nêu trên, cụ S và cụ U không có con đẻ, không có con nuôi nào khác. Cụ S và cụ U chết không để lại di chúc Về di sản: Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 01/01/1988 đứng tên cụ Nguyễn Trọng S thể hiện như sau: Thửa đất 293B diện tích 343m2 đất thổ cư (ở) và thửa đất 293A diện tích 500m2 đất ao, cả hai thửa đất này đều ở thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Theo bản đồ năm 2002, hai thửa đất trên chia thành 03 thửa gồm: Thửa đất 312, diện tích 480.4m2 hiện tại bà Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Trọng Q quản lý (diện tích đo thực tế là 545,2m2, trong đó:

343m2 đất ở và 202,2m2 đất ao); thửa đất 313, diện tích 342,6m2 hiện tại bà Nguyễn Thị H quản lý; thửa đất 314 diện tích 125,1m2 chủ sử dụng là ông Nguyễn Trọng Thịnh (thửa đất này biến động chủ sử dụng do chuyển nhượng quyền sử dụng đất).

Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 01/01/1988, cụ Nguyễn Trọng S được quyền sử dụng 843m2 đất tại thôn Tr, xã L, bao gồm: Thửa đất 293A, diện tích 500m2 đất ao và thửa đất 293B, diện tích 343m2 đất ở. Năm 1994 cụ Nguyễn Thị U đã bán 125m2 đất trong tổng diện tích đất nêu trên cho ông Nguyễn Trọng Thịnh (lúc bán trên đất không có nhà ở). Năm 2002 đo đạc lại bản đồ, thửa đất 293A và thửa đất 293B chia thành 03 thửa gồm: Thửa đất 312, diện tích 480,4m2 đất ở hiện nay bà Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Trọng Q quản lý; thửa đất 313, diện tích 342,6m2 đất ở hiện nay bà Nguyễn Thị H quản lý và thửa đất 314, diện tích 125,1m2 đất ở hiện nay ông Nguyễn Trọng Thịnh quản lý.

Trên thửa đất 312 trước đây có ngôi nhà 04 gian cấp 4 do cụ S và cụ U làm và một ngôi nhà 3 gian mái bằng nhưng hiện nay các ngôi nhà trên đã bị phá dỡ để anh Nguyễn Trọng Q xây ngôi nhà 3 tầng trên đất. Hàng năm bà về thắp hương bố mẹ tại nhà ông Nguyễn Trọng M vào ngày giỗ, tết. Sau khi ông M chết, vợ và con trai ông M cản trở không cho bà vào thắp hương. Bà S đã gặp bà Th và anh Q mong muốn được hưởng một phần đất ở thửa đất số 312 là di sản của bố, mẹ bà để lại để bà có thể tìm lại cội nguồn, tổ tiên, nơi bà sinh ra nhưng bà Th, anh Q không đồng ý. Nay bà đề nghị Tòa án chia thừa kế theo pháp luật đối với thửa đất 312, diện tích 480,4m2 (theo bản đồ năm 2022), diện tích đo thực tế là 545,2m2 tại thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Bà mong muốn được hưởng bằng hiện vật, đề nghị xem xét cho bà hưởng thêm một phần đất do công sức của bà đóng góp, duy trì, tôn tạo đất. Đối với thửa đất 313 và thửa đất 314 bà không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Bị đơn: 1. Bà Nguyễn Thị Th trình bày :

Bà lấy ông Nguyễn Trọng M từ tháng 8 năm 1975, vợ chồng bà sống cùng cụ S và cụ U. Lúc đó gia đình có 4 gian nhà cấp 4 lợp ngói và 3 gian nhà cấp 4 xây bằng gạch. Khi bà về làm dâu, bà S, bà M và bà H đã lấy chồng chuyển đi ở nơi khác, bà H ở với bố mẹ được khoảng 02 năm thì lấy chồng. Việc chăm sóc bố mẹ chồng khi còn sống chủ yếu do vợ chồng bà và các con bà chăm sóc. Khi bố mẹ chết vợ chồng bà đứng lên lo ma, các chị em trong gia đình đóng góp. Nguồn gốc thửa đất 312 hiện nay bà và gia đình con trai bà Nguyễn Trọng Q đang ở là của cụ Nguyễn Trọng S và cụ Nguyễn Thị U. Khi lấy ông M, bà về nhà cụ S và cụ U ở, lúc đó vườn còn thấp và có ao, bà và ông M đã trả tiền lấp ao, tôn tạo thửa đất như ngày nay.

Năm 2017 gia đình bà đã phá bỏ 4 gian nhà cấp 4 lợp ngói và 3 gian nhà cấp 4 xây bằng gạch để xây ngôi nhà 03 tầng hiện nay. Khi phá bỏ các ngôi nhà trên, các con cụ S và cụ U đều đồng ý, không có ý kiến gì khác. Hiện nay chồng bà là ông M đã chết, bà và gia đình anh Nguyễn Trọng Q (con trai ông bà) sinh sống trên thửa đất 312, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên đất hiện nay có ngôi nhà 03 tầng và đoạn tường bao xây năm 2017; 02 gian bếp nấu rượu và nuôi gà bà và ông M làm năm 2010; tường bao bao quanh 2 gian bếp bà và ông M làm năm 2000. Nay bà S yêu cầu chia thừa kế thửa đất 312 tại thôn Tr, xã L, ý kiến của bà là chồng bà là ông M đã chết, kỷ phần bà được hưởng thừa kế của ông M bà mong muốn được hưởng bằng hiện vật để lấy nơi thờ cúng các cụ và chồng bà. Kỷ phần thừa kế này bà cho con trai bà là anh Nguyễn Trọng Q. Bà muốn hưởng phần đất có ngôi nhà 3 tầng mới xây giáp đường ngõ đi vào nhà ông Tại, ông Thuyết và nhà thờ họ Vũ. Về công sức phát triển tài sản trên đất bà cũng cho con trai là anh Nguyễn Trọng Q.

2. Anh Nguyễn Trọng Q trình bày:

Nguồn gốc thửa đất 312 hiện nay mẹ anh bà Th và gia đình anh đang ở là của cụ Nguyễn Trọng S và cụ Nguyễn Thị U. Tài sản trên đất gồm ngôi nhà 03 tầng, tường bao, 02 gian bếp nấu rượu và nuôi gà do bố mẹ anh và vợ chồng anh làm. Bố anh ông Nguyễn Trọng M đã chết. Nay bà S yêu cầu chia thừa kế thửa đất anh và mẹ anh đang ở, ý kiến của anh như sau: Bố anh - ông M đã chết, đất các cụ để lại, anh muốn giữ lại để thờ cúng tổ tiên. Nếu phải chia thừa kế theo pháp luật, kỷ phần anh được hưởng thừa kế của bố anh, anh mong muốn được hưởng bằng hiện vật để lấy nơi thờ cúng các cụ và bố anh. Anh muốn hưởng phần đất có ngôi nhà 3 tầng mới xây giáp đường ngõ đi vào nhà ông Tại, ông Thuyết và nhà thờ họ Vũ. Mẹ anh - bà Th cho anh hưởng kỷ phần thừa kế của bố anh, anh đồng ý.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

1. Các bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị M và bà Nguyễn Thị H trình bày:

Nguồn gốc thửa đất 312 tại thôn Tr, xã L hiện nay bà Th, anh Q quản lý là của bố mẹ các bà là cụ Nguyễn Trọng S và cụ Nguyễn Thị U. Nay bà Nguyễn Thị S yêu cầu chia thừa kế thửa đất 312, diện tích 480.4m2 (theo bản đồ năm 2002), diện tích đo thực tế là 545,2m2 tại thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Bà Nguyễn Thị H và bà Nguyễn Thị M đều có văn bản thể hiện kỷ phần thừa kế được hưởng của bà H và bà M cho anh Nguyễn Trọng Q; bà Nguyễn Thị H có văn bản thể hiện kỷ phần thừa kế bà được hưởng bà cho hai con anh Nguyễn Trọng Q là cháu Nguyễn Trọng K và cháu Nguyễn Trọng Kh. Tuy nhiên, ngày 26/8/2022, bà H có văn bản thay đổi ý kiến nêu trên, bà đề nghị được hưởng di sản thừa kế bằng hiện vật là quyền sử dụng đất.

2. Chị Nguyễn Thị Th và chị Nguyễn Thị Th trình bày:

Các chị là con của ông Nguyễn Trọng M và bà Nguyễn Thị Th. Bố các chị đã mất năm 2018. Các tài sản trên đất đều do bố mẹ và vợ chồng anh Q xây dựng phát triển, hiện nay các chị đã lấy chồng ở nơi khác. Nay bà Nguyễn Thị S yêu cầu chia thừa kế thửa đất 312, diện tích 480.4m2 (theo bản đồ năm 2002), diện tích đo thực tế là 545,2m2 tại thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội, các chị không đồng ý chia thừa kế theo yêu cầu của bà S. Nếu phải chia thừa kế theo pháp luật, các chị mong muốn được hưởng bằng đất (hiện vật), kỷ phần thừa kế các chị được hưởng các chị cho anh Nguyễn Trọng Q.

3. Chị Nguyễn Thị Ly Đ trình bày:

Chị là vợ anh Nguyễn Trọng Q, là con dâu của bà Nguyễn Thị Th. Hiện nay chị đang sinh sống trên thửa đất bà Nguyễn Thị S yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật. Chị lấy anh Q từ năm 2007, khi đó bố chồng chị ông Nguyễn Trọng M còn sống. Năm 2017 gia đình chị xây được ngôi nhà 03 tầng trên đất. Nay bà S yêu cầu chia thừa kế tài sản là thửa đất chị đang sinh sống cùng gia đình, chị mong Tòa án xem xét bảo vệ quyền lợi của gia đình chị.

Do điều kiện công việc bận, bà Th, chị Th, chị Th và chị Đ có văn bản ủy quyền cho anh Nguyễn Trọng Q thay mặt giải quyết những vấn đề liên quan đến vụ án.

Quá trình tiến hành tố tụng, bà S trình bày có công sức đóng góp duy trì, tôn tạo thửa đất số 312, nhưng bà S không đưa ra tài liệu, chứng cứ nào chứng minh công sức đóng góp duy trì, tôn tạo đất.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 19/2022/DS - ST, ngày 29/8/2022 Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng đã xét xử:

1. Đình chỉ yêu cầu của bà Nguyễn Thị S về việc chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Trọng S.

2. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị S về việc chia tài sản thừa kế của cụ Nguyễn Thị U.

3. Cụ Nguyễn Thị U chết ngày 26/10/2002. Vì vậy, xác định thời điểm mở thừa kế là ngày 26/10/2002. Xác định di sản thừa kế của cụ Nguyễn Thị U gồm:

171,5m2 đất ở và 101,1m2 đất ao tại thửa đất số 312 ở thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội. Diện tích 171,5m2 đất ở trị giá 3.430.000.000 đồng; diện tích 101,1m2 đất ao trị giá 505.500.000 đồng. Tổng giá trị là: 3.935.500.000 đồng (Ba tỷ, chín trăm ba mươi lăm triệu, năm trăm nghìn đồng).

- Trích công sức 01 kỷ phần thừa kế công sức chăm sóc, lo mai táng cho cụ U và duy trì tôn tạo đất cho ông Nguyễn Trọng M, bà Nguyễn Thị Th. Ông M chết nên vợ ông M là bà Nguyễn Thị Th và 03 người con gồm: Anh Nguyễn Trọng Q, chị Nguyễn Thị Th và chị Nguyễn Thị Th được hưởng phần thừa kế của ông M.

- Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Thị U gồm:

+ Bà Nguyễn Thị S được hưởng 01 kỷ phần thừa kế.

+ Bà Nguyễn Thị H được hưởng 01 kỷ phần thừa kế.

+ Bà Nguyễn Thị M được hưởng 01 kỷ phần thừa kế.

+ Bà Nguyễn Thị H được hưởng 01 kỷ phần thừa kế.

+ Ông Nguyễn Trọng M được hưởng 01 kỷ phần thừa kế. Ông M chết năm 2018 nên vợ ông M là bà Nguyễn Thị Th và 03 người con gồm: Anh Nguyễn Trọng Q, chị Nguyễn Thị Th và chị Nguyễn Thị Th được hưởng phần thừa kế của ông M.

- Chia di sản của cụ Nguyễn Thị U để lại theo qui định của pháp luật. Giá trị tài sản thừa kế theo kỷ phần thừa kế được hưởng là 3.935.500.000 đồng : 6 = 655.916.666 đồng.

- Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị Th, chị Nguyễn Thị Th và chị Nguyễn Thị Th đều có văn bản cho anh Nguyễn Trọng Q hưởng phần được thừa kế của mình.

4. Phần chia hiện vật cụ thể như sau:

- Giao cho anh Nguyễn Trọng Q sử dụng diện tích 171,5m2 đất ở và 101,1m2 đất ao tại thửa đất số 312 ở thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội là tài sản của cụ Nguyễn Trọng S, do hết thời hiệu khởi kiện - Chia cho anh Nguyễn Trọng Q được hưởng di sản của cụ Nguyễn Thị U là 171,5m2 đất ở và 101,1m2 đất ao tại thửa đất số 312 ở thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.

(có sơ đồ kèm theo).

- Anh Nguyễn Trọng Q có trách nhiệm thanh toán trả bà Nguyễn Thị S 655.916.666 đồng (S trăm năm mươi lăm triệu, chín trăm mười sáu nghìn, sáu trăm sáu mươi sáu đồng).

Anh Nguyễn Trọng Q có trách nhiệm thanh toán trả bà Nguyễn Thị H 655.916.666 đồng (S trăm năm mươi lăm triệu, chín trăm mười sáu nghìn, sáu trăm sáu mươi sáu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

5. Người được chia (giao) quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất có quyền, nghĩa vụ đến Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký kê khai; đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với phần diện tích đất được chia (giao) theo quy định của pháp luật về đất đai.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án của các bên đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Nguyễn Thị H và bà Nguyễn Thị S kháng cáo đối với bản án sơ thẩm với các lý do sau:

1. Xác định di sản thừa kế của cụ S vẫn trong thời hiệu khởi kiện 2. Việc trích công sức chăm sóc, lo mai táng cho cụ U và duy trì tôn tạo đất cho ông M bà Th được hưởng bằng một kỷ phần thừa kế là cảm tính, thiếu khách quan, làm giảm số lượng giá trị kỷ phần các bà đáng lẽ được hưởng gây thiệt hại cho quyền lợi của các bà.

3. Di sản đủ điều kiện chia bằng hiện vật nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không chia là không đúng Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên khởi kiện, yêu cầu kháng cáo Bị đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn đề nghị Toà án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, theo quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự xác định thời hiệu khởi kiện là 30 năm, hai ngôi nhà trên đất có từ năm 1963 và 1998 thì thời hiệu khởi kiện phải tính từ đó đến nay, bên cạnh đó thì bị đơn đã ở tại thửa đất này từ nhiều năm nay duy trì việc thờ cúng các cụ tổ tiên, trong gia đình đã thực hiện việc chia di sản thừa kế. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì đã hết thời hiệu khởi kiện.

Các đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà S phát biểu và đề nghị:

- Nguyên đơn - bà S kháng cáo yêu cầu chia di sản đối với phần diện tích đất đo thực tế 545,2m2 thuộc thửa đất số 312 thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội là di sản của các cụ để lại. Nguyên đơn đề nghị chia di sản cho các đồng thừa kế, trong đó chỉ yêu cầu chia phần diện tích còn lại (212m2 ) bằng hiện vật, phần diện tích đất này khi chia không bị ảnh hưởng đến việc phá dỡ công trình xây dựng và nhà ở của bị đơn.

- Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản của cụ S hết thời hiệu khởi kiện là không đúng, theo Giải đáp nghiệp vụ số 01 ngày 05/01/2018 của Tòa án nhân dân tối cao thì thời hiệu khởi kiện 30 năm được tính từ ngày 10/9/1990. Tại thời điểm cụ S chết thì trên diện tích đất được xác định là di sản có nhà ở xây trên đất. Do vậy theo hướng dẫn tại Văn bản này thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ S vẫn còn trong thời hiệu.

- Theo quy định của pháp luật thì việc chia thừa kế bằng hiện vật, di sản thừa kế là thửa đất có diện tích đủ điều kiện để chia bằng hiện vật nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không chia cho bà S bằng hiện vật mà lại chia bằng tiền là không có căn cứ.

Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, xác định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế di sản của cụ S còn trong thời hiệu và chia cho bà S kỷ phần thừa kế bằng hiện vật đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho bà S.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà H phát biểu và đề nghị:

- Nhất trí với nội dung Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị S đã phát biểu.

- Tòa án cấp sơ thẩm trích công sức cho bà Th bằng 01 kỷ phần thừa kế là chưa phù hợp. Tại phiên tòa bà S, bà H đều xác định khi còn sống cụ U ở một mình, khi cụ ốm đau bà S và bà H cùng nhau chăm sóc cụ U.

Đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận việc tính công sức cho bà Th và các con của bà Th bằng 01 kỷ phần thừa kế.

- Công nhận thửa đất số 312 thôn Tr, xã L, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội có diện tích 545,2m2 là di sản thừa kế của cụ U và cụ S để lại và chia thừa kế cho 4 người con là bà S, bà H, bà M, bà M, còn bà H đã được các cụ cho đất trước đó rồi nên không chia cho bà H nữa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự đã thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Sau khi phân tích, đánh giá quá trình giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu:

Căn cứ trình bày của các bên đương sự đều xác nhận, tại thời điểm mở thừa kế của cụ S thì trên phần diện tích đất được xác định là di sản của hai cụ để lại có nhà ở xây dựng trên phần diện tích đất này. Căn cứ theo quy định Điều 623 BLDS 2015, hướng dẫn tại Giải đáp nghiệp vụ số 01 ngày 05/01/2018 của Tòa án Tối cao và Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao xác định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đối với di sản của cụ S còn trong thời hiệu. Tòa án cấp sơ thẩm xác định hết thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế của cụ S là không đúng. Do phải thực hiện việc chia lại kỷ phần thừa kế nên tại cấp phúc thẩm không thể giải quyết ngay.

Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 19/2022/DSST ngày 29/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, không thuộc trường hợp phải nộp tiền tạm ứng án phí nên xác định kháng cáo là hợp lệ.

Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có đơn kháng cáo, đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật.

2. Về nội dung:

Xác định về thời hiệu khởi kiện: Cụ S chết ngày 10/5/1990, theo quy định tại khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản. Do thời điểm mở thừa kế trước ngày 10/9/1990 nên theo hướng dẫn tại Giải đáp nghiệp vụ số 01 ngày 05/01/2018 của Tòa án Tối cao thì thời hiệu khởi kiện 30 năm được tính từ ngày 10/9/1990.

Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều xác định: Tại thời điểm cụ S chết, trên diện tích đất ở có 01 nhà cấp 4 do cụ S và cụ U làm năm 1963 và 01 nhà mái bằng làm năm 1988 nhưng đến năm 2017 gia đình bà Th, anh Q đã phá bỏ để xây nhà mới như hiện nay.

Như vậy, di sản cụ S và cụ U để lại là nhà trên diện tích 343m2 đất ở, theo hướng dẫn tại mục I.2.2.a Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao quy định: “ Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 1/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 1/7/1996 đến ngày 1/1/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện”, như vậy thời hiệu khởi kiện đối với di sản thừa kế là nhà (gắn liền với quyền sử dụng đất) được xác định đến ngày 10/3/2023 (thời gian từ 1/7/1996 đến 01/01/1996 không tính vào thời hiệu khởi kiện), còn thời hiệu khởi kiện đối với tài sản là quyền sử dụng đất ao được xác định đến ngày 10/9/2020. Ngày 22/3/2021, Tòa án cấp sơ thẩm nhận đơn khởi kiện của bà S nên xác định hết thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ S đối với diện tích đất ao là phù hợp quy định của pháp luật. Đối với yêu cầu chia thừa kế là phần diện tích nhà, đất ở của cụ S, Tòa án cấp sơ thẩm xác định hết thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế và đình chỉ yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn như đã nhận định ở nội dung nêu trên là không đúng quy định, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.

Để đảm bảo quyền được xét xử hai cấp, Tòa án cấp phúc thẩm cần phải hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

3. Về án phí: Do nguyên đơn là người cao tuổi và có đơn đề nghị miễn án phí nên không phải nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm và không phải chịu án phí.

Nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm sẽ được tính lại sau khi Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo trình tự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Huỷ toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 19 /2022/DSST, ngày 29/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Giao hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân huyện Đan Phượng để giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm.

2. Về án phí:

Nguyên đơn được xác định là người cao tuổi nên được miễn, không phải nộp tiền tạm ứng án phí và không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp chia thừa kế số 445/2023/DS-PT

Số hiệu:445/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về