Bản án về tranh chấp chia thừa kế số 36/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 36/2023/DS-ST NGÀY 22/09/2023 VỀ TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ

Ngày 22 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 107/2022/TLST-DS ngày 05 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp chia thừa kế” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2023/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 9 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Hà Thị T, sinh năm 1973; địa chỉ: tổ F, khóm T, thị trấn C, huyện T, tỉnh An Giang; có mặt.

2. Bị đơn: Ông Hà Văn M, sinh năm 1981; địa chỉ: tổ F, khóm T, thị trấn C, huyện T, tỉnh An Giang; có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Hà Hồng H, sinh năm 1950; địa chỉ: tổ F, khóm T, thị trấn C, huyện T, tỉnh An Giang; có mặt.

- Hà Thị T1, sinh năm 1964; địa chỉ: tổ F, khóm T, thị trấn C, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Hà Thị H1, sinh năm 1975; địa chỉ: tổ E, khóm T, thị trấn C, huyện T, tỉnh An Giang; có mặt.

- Hà Thị D, sinh năm 1967; địa chỉ: tổ E, khóm T, thị trấn C, huyện T, tỉnh An Giang.

- Hà Thị T2, sinh năm 1961; địa chỉ: K cũ cầu S, ấp V, xã V, huyện C, tỉnh An Giang.

- Hà Thị C, sinh năm 1962; địa chỉ: khu S, khóm B, thị trấn T, huyện T, tỉnh An Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Hà Thị D, Hà Thị T2, Hà Thị C: Bà Hà Thị T, sinh năm 1973; địa chỉ: tổ F, khóm T, thị trấn C, huyện T, tỉnh An Giang; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, với tư cách nguyên đơn và là người đại diện theo ủy quyền cho các bà Hà Thị D, Hà Thị T2, Hà Thị C - bà Hà Thị T trình bày: Bà Huỳnh Thị B chết không để lại di chúc. Bà B có để lại di sản là quyền sử dụng đất diện tích 1.165,1m2, thửa số 16, tờ bản đồ 43, loại đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại ấp T, thị trấn C, huyện T, tỉnh An Giang, bà B đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01679bI, do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 09/12/2005. Những người thừa kế của bà B gồm: Hà Hồng H, Hà Thị T1, Hà Thị H1, Hà Văn M, Hà Thị T, Hà Thị D, Hà Thị T2, Hà Thị C (đều là con của bà B); cha mẹ bà B đều đã chết. Hiện nay, diện tích đất 1.165,1m2 do ông M đang quản lý, sử dụng. Bà yêu cầu chia di sản là quyền sử dụng diện tích đất 1.165,1m2 với cách chia như sau: Chia cho ông M, ông H, bà T1, bà H1 quyền sử dụng đất diện tích 665,1m2 thể hiện tại các điểm 1 8,19,20,21,33,34 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất lập ngày 26/7/2023, không yêu cầu gì đối với phần mộ gắn liền với đất; chia cho bà và bà T2, bà C, bà D quyền sử dụng đất diện tích 500m2 thể hiện tại các điểm 1,26,33,34 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất lập ngày 26/7/2023. Bà T2, bà C, bà D đã tặng cho bà phần các bà được chia tuy nhiên không yêu cầu Tòa án công nhận, các bà sẽ tự thực hiện thủ tục tặng cho sau khi Tòa án giải quyết xong vụ án. Thống nhất với kết quả định giá theo quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh A thể hiện tại Biên bản định giá ngày 25/8/2023, không yêu cầu định giá theo giá thị trường.

Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, - Bị đơn Hà Văn M; những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - ông Hà H2, Hà Thị T1, Hà Thị H1 cùng trình bày: Thống nhất với ý kiến của bà T về quyền sử dụng diện tích đất 1.165,1m2 là di sản do bà B để lại và những người thừa kế. Phần đất hiện nay do ông M đang đại diện các anh chị để quản lý sử dụng. Các ông, bà đồng ý chia thừa kế quyền sử dụng diện tích đất 1.165,1m2 như yêu cầu của bà T nhưng với điều kiện bà T phải tháo dỡ căn nhà đang ở đậu trên nền đất ở thuộc quyền sử dụng của ông M. Thống nhất với kết quả định giá theo quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh A thể hiện tại Biên bản định giá ngày 25/8/2023, không yêu cầu định giá theo giá thị trường.

- Ngoài ra, ông M còn trình bày, phần đất bà T đang ở đậu không phải là di sản thừa kế, không liên quan đến tài sản đang tranh chấp trong vụ án này, ông chưa có yêu cầu phản tố, không yêu cầu khởi kiện trong vụ án khác. Để bảo vệ quyền lợi của ông, khi nào bà T dời nhà trả đất, ông sẽ thực hiện thủ tục chia di sản thừa kế cho bà T.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Hà Thị T2, Hà Thị C có lời khai thống nhất với lời khai của bà T.

Tại phiên tòa, Bà T trình bày: Nếu bà chỉ nhận quyền sử dụng đất theo kỷ phần của bà là 1.156,1m2/8 thì không đủ diện tích tách thửa nên bà yêu cầu chấp nhận chia theo ý kiến bà đã trình bày có trong hồ vụ án, đây cũng là ý kiến của các bà D, T2, C. Đối với chi phí tố tụng đã nộp tạm ứng (gồm chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá), bà tự nguyện chịu; đối với án phí dân sự sơ thẩm, bà tự nguyện chịu phần án phí mà bà D, bà T2, bà C phải chịu.

Ông M, ông H, bà H1 cùng trình bày: Nếu bà T đồng ý nhận riêng kỷ phần của bà trong tổng diện tích đất thì các ông, bà thống nhất. Nếu bà T yêu cầu được chia cùng bà T2, bà C, bà D diện tích đất 500m2 thì bà T phải di dời nhà đang ở đậu trên đất của ông M.

Kiểm sát viên phát biểu:

+ Về việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện đúng quy định Bộ luật Tố tụng dân sự về xác định thẩm quyền, quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng, thời hạn chuẩn bị xét xử, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải. Tuy nhiên, việc tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự còn trễ, biên bản tống đạt cho bà T1 chưa ghi đủ giờ, ngày tháng năm. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà đúng quy định. Đương sự thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo Điều 70, 71, 72 BLTTDS.

+ Về giải quyết vụ án:

Về nguồn gốc đất: Căn cứ vào lời khai của các đương sự phù hợp với giấy CN QSDĐ số H01678bI do UBND huyện T cấp cho bà Huỳnh Thị B nên xác định diện tích đất 1165,1m2 là di sản do bà B để lại. về hàng thừa kế: Các đương sự thống nhất Hà Hồng H, Hà thị D1, Hà Thị T, Hà thị T3, Hà Thị C, Hà Thị T2, Hà Văn M là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà B theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS. về phân chia di sản: Do bà B mất không để lại di chúc nên sẽ phân chia theo quy định của pháp luật với 08 phần như nhau. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, các đương sự thống nhất ông M, ông H, bà T3, bà hạnh được chia QSDĐ diện tích 665,1m2 thể hiện tại các điểm 18,19,20,21,33,34 theo bản trích do hiện trạng khu đất lập ngày 26/7/2023; Bà T2, bà C, bà D1, bà T được chia diện tích 500m2 thể hiện tại các điềm 1,26, 33,34 theo bản trích do hiện trạng khu đất lập ngày 26/7/2023, nhận thấy việc phân chia này là phù hợp nên chấp nhận.

Đối với yêu cầu của ông M về việc bà T phải di dời nhà trả lại phần đất ở mà ông đang sử dụng nhận thấy phần đất này không nằm trong phần đất yêu cầu chia nên không xem xét giải quyết, ông M có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T.

Các bên đương sự xác định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho tòa án, không còn cung cấp thêm chứng cứ nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về sự vắng mặt của đương sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hà Thị T1 vắng mặt tại phiên tòa và có yêu cầu xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bà T1 theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[2] Về xác định di sản thừa kế và người thừa kế: Căn cứ lời khai thống nhất của nguyên đơn, bị đơn, tất cả những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và đối chiếu với hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01679bI, do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 09/12/2005, có cơ sở xác định, quyền sử dụng đất có diện tích 1.165,1m2, thuộc thửa số 16, tờ bản đồ 43, loại đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại ấp T, thị trấn C, huyện T, tỉnh An Giang, là di sản do bà Huỳnh Thị B để lại. Bà B chết không để lại di chúc nên di sản được chia theo pháp luật. Những người thừa kế của bà B gồm: Hà Hồng H, Hà Thị T1, Hà Thị H1, Hà Thị T, Hà Văn M, Hà Thị D, Hà Thị T2, Hà Thị C.

[3] Về việc chia di sản thừa kế:

[3.1] Bà T yêu cầu phân chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật. Theo đó, bà yêu cầu chia cho bà T, bà T2, bà C, bà D quyền sử dụng đất diện tích 500m2 thể hiện tại các điểm 1,26,33,34 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất lập ngày 26/7/2023; chia cho ông M, ông H, bà T1, bà H1 quyền sử dụng đất diện tích 665,1m2 thể hiện tại các điểm 18,19,20,21,33,34, trên đất có phần mộ với diện tích 22,9m2 thể hiện tại các điểm 22,23,24,25 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất lập ngày 26/7/2023. Yêu cầu phân chia của bà T là phù hợp với quy định tại Điều 660 Bộ luật Dân sự năm 2015, đảm bảo diện tích tách thửa theo Quyết định số 19/2023/QĐ-UBND ngày 08/5/2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh A ban hành quy định về các định mức sử dụng đất trên địa bàn tỉnh An Giang, không trái quy định khác của pháp luật, phù hợp với ý kiến của những người thừa kế còn lại gồm: bà danh, bà thơ, bà chiền (có bà thắm đại diện theo ủy quyền), ông M, ông H, bà T1, bà H1 thể hiện trong hồ sơ vụ án và có lợi cho ông M, ông H, bà T1, bà H1 bởi được phân chia với diện tích đất lớn hơn diện tích bà T, bà D, bà T2, bà c được chia.

[3.2] Riêng lời khai của ông M, ông H, bà T1, bà H1 về việc đồng ý phân chia thừa kế theo yêu cầu của bà T với điều kiện và T phải tháo dỡ căn nhà đang ở đậu trên nền đất ở thuộc quyền sử dụng của ông M. Tuy nhiên, theo ông M xác định, phần đất bà T đang ở đậu không phải là di sản thừa kế, không liên quan đến vụ án, trong vụ án này ông không có yêu cầu phản tố, không khởi kiện trong vụ án khác; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu giải độc lập, nên trong phạm vi yêu cầu của đương sự, Tòa án không đề cập xem xét, giải quyết. Như vậy, việc phân chia di sản thừa kế trong vụ án này không phụ thuộc vào điều kiện bà T phải di dời nhà ở đậu trên đất của ông M; không làm ảnh hưởng quyền khởi kiện của ông M khi có tranh chấp.

[3.3] Từ nhận định tại mục [3.1], [3.2], yêu cầu khởi kiện của bà T và ý kiến của bà T2, C, D là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về chi phí tố tụng: Chấp nhận sự tự nguyện của bà T về việc tự nguyện chịu các chi phí tố tụng đã nộp tạm ứng (gồm chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá) thể hiện theo Biên bản giao nhận tạm ứng chi phí đo đạc ngày 25/5/2022; Danh sách chi định giá ngày 25/8/2023 (hai danh sách); Danh sách chi xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 21/6/2023; Hợp đồng số 38/HĐDV-TP ngày 20/6/2023, Phụ lục hợp đồng ngày 03/7/2023 và Hóa đơn giá trị gia tăng ngày 06/7/2023, Phiếu thu số 54 ngày 25/5/2022 của Văn phòng Đ - chi nhánh T4.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thống nhất xác định giá trị tài sản quyền sử dụng diện tích đất 1.165,1m2 là 53.012.050 đồng, tương đương giá trị 45.500 đồng/m2, thể hiện theo Biên bản định giá tài sản ngày 25/8/2023. Nên giá trị tài sản bà T, bà D, bà T2, bà c được chia là 22.750.000 đồng; giá trị tài sản ông M, ông H, bà T1, bà H1 được chia là 30.262.050 đồng. Vì vậy, bà T, bà D, bà T2, bà C phải cùng chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.137.500 đồng, nhưng ghi nhận việc bà T tự nguyện chịu án phí sơ thẩm cho bà D, bà T2, bà C; ông M, ông H, bà Tl, bà HI phải cùng chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.513.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 649, 650, 651, 660 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 147, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[1] Chấp nhận nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị T.

[2] Quyền sử dụng đất có diện tích 1.165,1m2, thuộc thửa số lố, tờ bản đồ 43, loại đất trồng cây lâu năm, tọa lạc tại thị trấn C, huyện T, tỉnh An Giang, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H01679bI, do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 09/12/2005 mang tên Huỳnh Thị B, là di sản do bà Huỳnh Thị B để lại.

[3] Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà Huỳnh Thị B gồm: Hà Hồng H, Hà Thị T1, Hà Thị C, Hà Thị T2, Hà Thị D, Hà Thị H1, Hà Thị T, Hà Văn M.

[4] Chia chung cho Hà Thị T, Hà Thị T2, Hà Thị C, Hà Thị D quyền sử dụng đất diện tích 500m2 thể hiện tại các điềm 1,26,33,34, theo Bản trích đo hiện trạng khu đất lập ngày 26/7/2023; chia chung cho Hà Văn M, Hà Hồng H, Hà Thị T1, Hà Thị H1 quyền sử dụng đất diện tích 665,1m2 thể hiện tại các điểm 18,19,20,21,33,34, trên đất có phần mộ với diện tích 22,9m2 thể hiện tại các điểm 22,23,24,25, theo Bản trích đo hiện trạng khu đất lập ngày 26/7/2023. Các ông bà: T, T2, C, D, M, H, T1, H1 có trách nhiệm liên hệ với cơ quan chuyên môn thực hiện thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất.

[5] Về chi phí tố tụng: Bà Hà Thị T tự nguyện chịu toàn bộ chi phí tố tụng đã nộp tạm ứng thể hiện theo Biên bản giao nhận tạm ứng chi phí đo đạc ngày 25/5/2022; Danh sách chi định giá ngày 25/8/2023 (hai danh sách); Danh sách chi xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 21/6/2023; Hợp đồng số 38/HĐDV-TP ngày 20/6/2023, Phụ lục hợp đồng ngày 03/7/2023 và Hóa đơn giá trị gia tăng ngày 06/7/2023, Phiếu thu số 54 ngày 25/5/2022 của Văn phòng Đ - chi nhánh T4.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Hà Thị T chịu 1.137.500 (một triệu một trăm ba mươi bảy nghìn năm trăm) đồng; ông Hà Văn M, Hà Hồng H, bà Hà Thị T1, bà Hà Thị H1 cùng chịu 1.513.000 đồng (một triệu năm trăm mười ba nghìn) đồng.

[7] Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà T, ông M, ông H có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn kháng cáo của bà T1 là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt đúng quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp chia thừa kế số 36/2023/DS-ST

Số hiệu:36/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:22/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về