TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 25/2024/DS-PT NGÀY 23/01/2024 TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ
Ngày 23 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh S, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 163/2023/TLPT-DS ngày 05 tháng 10 năm 2023, về “Tranh chấp chia thừa kế”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 61/2023/DS-ST ngày 04 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh S bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 243/2023/QĐ-PT ngày 27 tháng 10 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị N, sinh năm 1967, địa chỉ: Ấp L, xã N, huyện M, tỉnh S.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Phạm Ngọc N1, địa chỉ: Ấp X, thị trấn P, huyện T, tỉnh S, theo văn bản ủy quyền ngày 26/11/2020 (vắng mặt).
- Bị đơn: Ông Bùi Văn B, sinh năm 1975, địa chỉ: Ấp H, xã N, huyện M, tỉnh S.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1978, địa chỉ: Ấp H, xã N, huyện M, tỉnh S (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trần Thị C, sinh năm 1954 (vắng mặt).
2. Ông Trần Văn P (tên khác Phận L), sinh năm 1956 (vắng mặt).
3. Bà Trần Thị Đ, sinh năm 1960 (vắng mặt).
4. Bà Bùi Thị Y, sinh năm 1971 (vắng mặt).
5. Ông Bùi Văn T1, sinh năm 1973 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: ấp H, xã N, huyện M, tỉnh S.
6. Ông Trần Văn P (tên khác Phận N2), sinh năm 1959, địa chỉ: Ấp S, xã T, huyện M, tỉnh S (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông P: Bà Phạm Ngọc N1, địa chỉ: Ấp X, thị trấn P, huyện T, tỉnh S (vắng mặt).
7. Bà Trần Thị S, sinh năm 1937 (vắng mặt).
8. Ông Đỗ Văn H, sinh năm 1965 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp H, xã N, huyện M, tỉnh S.
9. Bà Hồ Thị L1, địa chỉ: Ấp H, xã N, huyện M, tỉnh S (vắng mặt).
10. Bà Lục Thị L2, sinh năm 1964, địa chỉ: số B, ấp L, xã N, huyện M, tỉnh S.
11. Ngân hàng N5.
Người đại diện: Ông Lâm Minh T2, địa chỉ: Số A A, ấp C, thị trấn M, huyện M, tỉnh S (có mặt).
12. Bà Trần Thị T, sinh năm 1978 (vắng mặt).
13. Bà Bùi Trần Thùy T3, sinh năm 2001 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: ấp H, xã N, huyện M, tỉnh S.
- Người kháng cáo: Ông Bùi Văn B là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 10/12/2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày 24/6/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
Mẹ của bà N là cụ Nguyễn Thị N3 (chết ngày 09/3/2013) có tất cả 03 người chồng là: Cụ Trần Văn H1 (chết năm 1962), cụ Huỳnh Văn K (chết năm 1967) và cụ Bùi Văn B1 (chết năm 2012). Cụ N3 chung sống với cụ Trần Văn H1 có 04 người con gồm: Bà Trần Thị C, ông Trần Văn P (Phận lớn), ông Trần Văn P (Phận nhỏ) và bà Trần Thị Đ. Đến năm 1962 cụ Trần Văn H1 chết, cụ N3 chung sống với cụ Huỳnh Văn K có 01 người con chung tên Huỳnh Thị N. Đến năm 1967 cụ Huỳnh Văn K chết, cụ N3 chung sống với ông Bùi Văn B1 có 03 người con chung gồm: Bà Bùi Thị Y, ông Bùi Văn T1 và ông Bùi Văn B.
Khi còn sống thì cụ N3 và cụ H1 có tự khai phá đất hoang hóa tạo lập được những tài sản sau: Thửa đất số 579, diện tích 20.590m2 và thửa đất số 830, diện tích 1.600m2 cùng tọa lạc tại ấp H, xã N, huyện M, tỉnh S. Sau khi khai phá những tài sản nói trên cụ N3 và cụ H1, sử dụng phần đất này đến năm 1962 thì cụ H1 chết, cụ N3 gặp cụ K tiếp tục sử dụng các phần đất nói trên, nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến năm 1967 cụ K chết, cụ N3 sống với cụ B1, vẫn tiếp tục sử dụng đất đến năm 1993 thì cụ B1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất nói trên.
Lúc còn sống thì cụ N3 có hứa cho bà N 02 công đất (tầm cấy), việc cụ N3 hứa cho đất các chị em của bà ai cũng biết nhưng không có giấy tờ. Sau khi cụ N3 mất thì ông Bùi Văn B quản lý và sử dụng hết các phần đất nói trên. Sau đó thì bà N có gặp ông Bùi Văn B đế yêu cầu ông B tách thửa tuy nhiên ông B không đồng ý. Nay bà Huỳnh Thị N yêu cầu phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của bà Nguyễn Thị N3 và ông Bùi Văn B1 đối với thửa đất số 579 và thửa đất số 830 nêu trên. Bà xin hưởng 01 phần bằng hiện vật là đất. Tuy nhiên tại phiên toà sơ thẩm, người đại diện nguyên đơn có thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện là xin nhận bằng giá trị đất, không nhận bằng hiện vật.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Bùi Văn B trình bày:
Ông thống nhất với lời trình bày của bà N về quan hệ nhân thân cha mẹ và các anh em. Khi còn sống mẹ ông đã chia cho bà N hơn 20 công đất ở ấp H, xã H, riêng thửa số 830 nguồn gốc là của ông ngoại ông tên Nguyễn Văn D cho mẹ ông và năm 1993 thì cha ông là Bùi Văn B1 được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Đối với thửa đất số 579, diện tích 20.590m2 thì khi còn sống mẹ ông đã chia cho anh Phận N2 diện tích 3.600m2, chia cho chị Trần Thị Đ diện tích 1.200m2, hai anh chị này sử dụng đến năm 2002 thì anh Phận N2 chuyển nhượng lại cho ông B, năm 2015 thì chị Đ chuyển nhượng lại cho ông B toàn bộ phần đất mà cụ N3 đã chia. Phần đất còn lại của hai thửa 579 và 830 cha mẹ cho ông được quyền sử dụng. Việc cha mẹ cho đất anh P (nhỏ) và chị Đ không có giấy tờ, có các anh em đều biết, ngoài ra khi cha mẹ còn sống không để lại di chúc. Nay bà N yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật phần đất 02 thửa nêu trên ông không đồng ý, vì khi cha mẹ còn sống đã chia đất cho bà N rồi. Toàn bộ hai thửa đất trên khi còn sống mẹ ông đã cho ông được quyền sử dụng vì tôi là con út nuôi cha mẹ già. Hiện giấy chứng nhận QSDĐ ông B đang thế chấp cho Ngân hàng N6 chi nhánh N7, huyện M để vay số tiền là 175.000.000đ hiện chưa thanh toán trong số nợ trên thì trước đây mẹ ông là cụ N3 còn nợ Ngân hàng N8 chi nhánh huyện M số tiền là 50.000.000đ chưa trả do đó vợ chồng ông đáo hạn vay tiếp nhiều lần và hiện nay còn nợ vốn 175.000.000d. Ngoài ra khi còn sống cụ N3 còn nợ tiền thức ăn nuôi tôm của bà Lục Thị L2 số tiền 24.939.000đ, nợ bà Hồ Thị L1 10.000.000đ chưa thanh toán.
Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị T trình bày: Bà thống nhất theo lời trình bày của ông B.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn P (Phận nhỏ) trình bày:
Ông thống nhất với lời trình bày của bà N, nay ông yêu cầu chia di sản thừa kế mà mẹ ông là bà N3 để lại là các thửa đất số 579 và 830. Tại phiên toà sơ thẩm người đại diện của ông P thống nhất giao kỷ phần thừa kế của ông P cho bà N được hưởng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn P (Phận lớn, Trần Thị Đ, Bùi Văn T1, Bùi Thị Y, Trần Thị C cùng thống nhất trình bày:
Các ông, bà thống nhất với lời trình bày của bà N về quan hệ nhân thân gia đình, các ông, bà yêu cầu chia di sản thừa kế mà cụ N3 để lại là các thửa đất số 579 và 830, nhưng các ông, bà thống nhất nhường kỷ phần thừa kế của mình cho ông B được hưởng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lục Thị L2 trình bày:
Trước đây cụ N3 là mẹ của ông B có nợ bà số tiền 24.939.000 đồng chưa thanh toán, nay giữ bà và ông B đã thỏa thuận là ông B sẽ có trách nhiệm trả cho bà số tiền này, nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn H trình bày:
Trước đây ông có thuê của ông B phần đất để cất quán bán tạp hoá, thời hạn thuê là 6 năm, tính đến nay còn 2 năm nữa là hết thời hạn thuê, nên ông không đồng ý trả lại phần đất thuê này vì chưa hết thời hạn thuê.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện Ngân hàng N5 trình bày:
Vào ngày 20/8/2020, ông B có vay vốn của Ngân hàng số tiền 175.000.000 đồng, đến nay ông B đang thực hiện thanh toán đúng hợp đồng vay nên Ngân hàng thấy không cần thiết khởi kiện để yêu cầu giải quyến về số nợ trên, nếu sau này có nhu cầu sẽ yêu cầu bằng một vụ án khác.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Hồ Thị L1 trình bày:
Trước đây cụ N3 là mẹ của ông B có nợ bà số tiền 10.000.000 đồng chưa thanh toán, nay giữ bà và ông B đã thỏa thuận là ông B sẽ có trách nhiệm trả cho bà số tiền này, nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 61/2023/DS-ST ngày 04/07/2023, Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh S đã quyết định:
“Tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị N.
- Xác định di sản thừa kế của cụ Bùi Văn B1 và cụ Nguyễn Thị N3 gồm quyền sử dụng đất tại các thửa đất so 579 có diện tích 23.842,8m2; thửa 830 có diện tích 1.818,3m2 là di sản thừa kế do cụ B1 và cụ N3 để lại, có tổng giá trị là 1.500.728.000 đồng.
2/ Chia thừa kế đối với di sản của cụ Bùi Văn B1 và cụ Nguyễn Thị N3 để lại cụ thể như sau:
- Bà Huỳnh Thị N được chia di sản thừa kế của cụ B1 và cụ N3 để lại hằng giá trị số tiền là 234.488.750 đồng (Hai trăm ba mươi bốn triệu bốn trăm tám mươi tám ngàn bảy trăm năm mươi đồng).
- Ông B được chia di sản thừa kế của cụ B1và cụ N3 để lại bằng giá trị số tiền là 1.266.293.196 đồng (Một tỷ hai trăm sáu mươi sáu triệu hai trăm chín mươi ba ngàn một trăm chín mươi sáu đồng).
- Giao cho ông Bùi Văn B được quyền quản lý, canh tác, sử dụng di sản thừa kế của cụ B1 và cụ N3 để lại bằng hiện vật cụ thể:
- Thửa đất số 579, tờ bản đồ số 05, đất ao tôm có diện tích theo so đo thực tế là 23.842,8m2, hiện nay đang do vợ chồng ông B bà T sử dụng, có tứ cận như sau:
+ Hướng đông giáp thửa 580, thửa 608, thửa 609 có số đo 248,47m.
+ Hướng tây giáp ấp H, xã N có số đo 272,6m.
+ Hướng nam giáp ấp Huỳnh Công Đ1 có số đo 89,64m.
+ Hướng bắc giáp thửa 578 có số đo 120,75m.
Hiện là đất ao tôm do ông B đang nuôi tôm.
- Thửa đất số 830, tờ bản đồ số 05 diện tích theo số đo thực tế là 1.818,3m2, hiện nay đang do vợ chồng ông B và bà T sử dụng có tứ cận như sau:
+ Hướng đông giáp lô bê tông có số đo 51,79m.
+ Hướng tây giáp thửa 549 có số đo 47,84m.
+ Hướng nam giáp thửa 556 có số đo 39,18m.
+ Hướng bắc giáp thửa 549 có số đo 31,86m.
Hiện trên đất có 01 căn nhà của Ông B có diện tích: Nhà trước diện tích 57,1m2, có kết cấu: Nền lót gạch men, mặt trước vách tường 10, hai bên vách lá, phía sau vách lá, mái lợp tol xi măng, đỡ mai gỗ dầu, khung cột bê tông cốt thép. Nhà sau: diện tích 58,6m2, có kết cấu: Nền tráng xi măng, một bên vách tường 10, hai bên vách tol, mái lợp tol xi mãng, đỡ mái gỗ dầu, khung cột đúc. Nhà vệ sinh: Nền gạch men, mái tường 10, ốp gạch men cao 1,2m, xí bệt mái lợp tol thiếc.
- Ông B có trách nhiệm liên hệ đến Cơ quan có thẩm quyền kê khai, đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất nêu trên.
- Ông Bùi Văn B có trách nhiệm thanh toán lại cho hà Huỳnh Thị N số tiền mà N được chia là 234.488.750 đồng (Hai trăm ba mươi bốn triệu bốn trăm tám mươi tám ngàn bảy trăm năm mươi đồng).
- Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, bà N có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng ông B còn phải trả lãi cho bà N theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền chậm thi hành án. ” Ngoài ra, trong bản án còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 19/7/2023, ông Bùi Văn B có đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị N, trường hợp buộc phải chia tài sản thừa kế thì buộc bà N phải có trách nhiệm cùng ông trả các khoản nợ của mẹ ông bao gồm: Nợ bà Lục Thị L2 24.939.000 đồng, nợ bà Hồ Thị L1 10.000.000 đồng và nợ Ngân hàng Nông nghiệp huyện N5 50.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, bị đơn vẫn giữ nguyên đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh S phát biểu ý kiến: về việc tuân thủ và chấp hành pháp luật tố tụng của Iigười tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Bùi Văn B về việc khấu trừ các khoản nợ của cụ N3 còn thiếu bà Lục Thị L2 24.939.000 đồng, nợ bà Hồ Thị L1 10.000.000 đồng trước khi chia thừa kế, những khoản nợ này ông B đã thỏa thuận với bà L1 và bà L2 là ông chịu trách nhiệm thanh toán thay cho cụ N3; không chấp nhận một phần kháng cáo của ông B về việc khấu trừ khoản nợ cụ N3 trước đây vay của Ngân hàng N5, vì không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét hàng thừa kế thứ nhất của cụ N3 bao gồm 08 người con là: Bà Trần Thị C, bà Trần Thị Đ, ông Trần Văn P (Phận lớn), ông Trần Văn P (Phận nhỏ), bà Huỳnh Thị N, ông Bùi Văn T1, bà Bùi Thị Y, ông Bùi Văn B. Hàng thừa kế thứ nhất của cụ B1 bao gồm 04 người là: Cụ N3, ông Bùi Văn T1, bà Bùi Thị Y, ông Bùi Văn B.
[2] Di sản của cụ N3 và cụ B1 để lại bao gồm: Thửa đất số 579, diện tích theo số đo thực tế là 23.842,8m2 và thửa 830 có diện tích theo số đo thực tế là 1818,3m2 đều toạ lạc ấp H, xã N, huyện M, tỉnh S, đã được Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh S cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Bùi Văn B1 vào ngày 14/10/1993.
[3] Cụ Nguyễn Thị N3 và cụ Bùi Văn B1 không lập di chúc phân chia các di sản trên, nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với các thửa đất nêu trên là phù hợp quy định pháp luật.
[4] Về phân chia di sản thừa kế: Căn cứ vào chứng thu thẩm định giá của Công ty cổ phần T4 số Vc 23/05/15/BĐS-ST, ngày 19/5/2023 thì giá trị của thửa đất số 579 là 1.311.354.000 đồng, giá trị của thửa đất số 830 là 189.373.800 đồng. Tổng cộng giá trị di sản của cụ N3 và cụ B1 để lại là 1.500.728.000 đồng, như vậy giá trị di sản của mỗi người là 1.500.728.000 đồng : 2 = 750.364.000 đồng.
[4.1] Di sản của cụ B1 chia cho 04 người bao gồm: Cụ N3, ông B, bà Y, ông T1 mỗi người được hưởng là: 750.364.000 đồng : 4 người = 187.591.000 đồng/người.
[4.2] Tổng giá trị di sản của cụ N3 là: 750.364.000 đồng + 187.591.000 đồng = 937.955.000 đồng, di sản này chia cho 08 người con của cụ N3 bao gồm: Bà C, bà Đ, bà Y, ông T1, ông B, ông P (Phận lớn) ông P (Phận nhỏ) và bà N, mỗi người được hưởng là: 937.955.000 đồng: 08 người = 117.244.375 đồng/người.
[4.3] Ông Trần Văn P (Phận nhỏ) đồng ý nhường kỷ phần thừa kế của mình được hưởng cho bà N, nên tổng giá trị bà N được hưởng là 234.488.750 đồng.
[4.4] Các ông, bà: Bà C, bà Đ, bà Y, ông P (Phận lớn), ông T1 đều thống nhất nhường kỷ phần thừa kế của mình được hưởng cho ông B, nên tổng giá trị ông B được hưởng là 1.266.293.196 đồng.
[5] Cách thức phân chia di sản thừa kế nêu trên của cấp sơ thẩm là đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, ông B kháng cáo cho rằng lúc còn sống cụ N3 có nợ bà Lục Thị L2 24.939.000 đồng, nợ bà Hồ Thị L1 10.000.000 đồng, sau khi cụ N3 mất ông đã thỏa thuận chịu trách nhiệm thanh toán cho bà L2 và bà L1 các khoản nợ này. Qua kết quả xác minh, bà L2 xác nhận trước đây bà N3 có nợ bà số tiền 24.939.000 đồng, sau đó ông B có thỏa thuận sẽ thanh toán có bà số tiền này; bà L1 xác nhận trước đây cụ N3 có nợ số tiền 10.000.000 nhưng ông B đã thỏa thuận trả số tiền này, do vậy kháng cáo của ông B yêu cầu khấu trừ các khoản nợ của cụ N3 nêu trên trước khi phân chia di sản là có cơ sở chấp nhận, về việc ông B trình bày vào năm 2007 cụ N3 có vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam huyện N5 số tiền 50.000.000 đồng, qua xem xét hồ sơ vay tiền thu thập tại Ngân hàng thể hiện vào năm 2007 ông B là người đứng tên vay của Ngân hàng số tiền 50.000.000 đồng, chứ không phải cụ N3, do vậy kháng cáo của ông về nội dung này không có căn cứ để chấp nhận.
[6] Nay cấp phúc thẩm xác định lại giá trị tài sản thừa kế của bà N và ông B được hưởng sau khi khấu trừ khoản nợ cụ N3 còn thiếu bà L2 và bà L1 chưa thanh toán khi mất là: Giá trị thừa kế bà N được hưởng là 225.754.000 đồng, ông B được hưởng là 1.274.974.000 đồng và ông B có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà L1 và bà L2 thay cụ N3.
[7] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của ông B, chấp nhận lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát sửa một phần bản án sơ thẩm.
[8] Các nội dung khác trong quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không đặt ra xem xét.
[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông B không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Bùi Văn B, sửa bản án sơ thẩm 61/2023/DS-ST ngày 04/07/2023, Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh S:
1/ Phân chia thừa kế di sản của cụ Bùi Văn B1 và cụ Nguyễn Thị N3 như sau:
- Bà Huỳnh Thị N được hưởng giá trị di sản thừa kế tổng số tiền là 225.754.000 đồng (hai trăm hai mươi lăm triệu, bảy trăm năm mươi bốn triệu đồng).
- Ông B được hưởng giá trị di sản thừa kế tổng số tiền là 1.274.974.000 đồng (một tỷ, hai trăm bảy mươi bốn triệu, chín trăm bảy mươi bốn ngàn đồng), nhưng giao cho bộ được nhận hiện vật là:
Thửa đất số 579, diện tích đo thực tế là 23.842,8m2, tọa lạc tại ấp H, xã N, huyện M, tỉnh S, có tứ cận như sau:
+ Hướng đông giáp thửa 580, thửa 608, thửa 609 có tổng số đo 248,07m.
+ Hướng tây giáp ấp Huỳnh Công Đ1 có số đo 272,6m.
+ Hướng nam giáp ấp Huỳnh Công Đ1 có số đo 89,64m.
+ Hướng bắc giáp thửa 578 có số đo 120,75m.
Thửa đất số 830, diện tích theo số đo thực tế là 1.818,3m2, tọa lạc tại ấp H, xã N, huyện M, tỉnh S, có tứ cận như sau:
+ Hướng đông giáp lộ bê tông có số đo 51,79m.
+ Hướng tây giáp thửa 549 có số đo 47,84m.
+ Hướng nam giáp thửa 556 có số đo 39,18m.
+ Hướng bắc giáp thửa 549 có số đo 31,86m.
Hiện trạng trên đất căn nhà của ông B có diện tích: Nhà trước diện tích 57,1m2, có kết cấu: Nền lót gạch men, mặt trước vách tường 10, hai bên vách lá, phía sau vách lá, mái lợp tol xi măng, đỡ mái gỗ dầu, khung cột bê tông cốt thép; nhà sau: diện tích 58,6m2, có kết cấu: Nền tráng xi măng, một bên vách tường 10, hai bên vách tol, mái lợp tol xi măng, đỡ mái gỗ dầu, khung cột đúc.
2/ Ông Bùi Văn B nhận toàn bộ hiện vật di sản nên có trách nhiệm thanh toán giá trị thừa kế cho bà Huỳnh Thị N với số tiền 225.754.000 đồng (hai trăm hai mươi lăm triệu, bảy trăm năm mươi bốn triệu đồng).
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, bà N có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng ông B còn phải trả lãi cho bà N theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền chậm thi hành án.
3/ Ông B có trách nhiệm liên hệ đến Cơ quan có thẩm quyền kê khai, đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất được chia thừa kế nêu trên.
4/ Về chi phí định giá tài sản: Bà N phải chịu 4.687.000 đồng, ông B phải chịu 25.313.000 đồng, bà N đã đóng tiền tạm ứng chi phí thẩm định giá nên ông B phải hoàn trả lại cho bà N số tiền trên.
5/ Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà N phải chịu là 11.287.700 đồng, nhưng được khấu trừ phần tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.300.000đ theo biên lai thu tiền số 0007467, ngày 22/12/2020 và được khấu trừ phần tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ biên lại thu tiền số 0009713, ngày 24/6/2021, bà N phải nộp thêm số tiền là 9.687.700 đồng.
Ông B phải chịu án phí là 50.249.220 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
6/ Án phí dân sự phúc thẩm: Ông B không phải chịu án phí, được nhận lại số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0010255 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện X.
7/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
8/ Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án về tranh chấp chia thừa kế số 25/2024/DS-PT
Số hiệu: | 25/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về