Bản án về tranh chấp chia thừa kế số 02/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 02/2024/DS-PT NGÀY04/01/2024 VỀ TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ

Ngày 04 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 376/2023/TLPT-DS ngày 20/10/2023 về việc “Tranh chấp chia thừa kế”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2023/DS-ST ngày 18/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 645/2023/QĐ-PT ngày 14/12/2023; Quyết định hoãn phiên toà số 635/2023/QĐPT- HPT ngày 25/12/2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Đặng Văn B, sinh năm 1971.

Trú tại: Số nhà 7, lô 10, tổ 28 phường Hoàng Văn T, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.

Bị đơn: Cụ Doãn Thị L, sinh năm 1937;

Trú tại: Thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Chu Thị Y, sinh năm 1959.

2. Anh Đặng Việt B, sinh năm 1987.

3. Anh Đặng Trung H, sinh năm 1989.

Cùng trú tại: Số nhà 3, lô 11 Đền Lừ 1, tổ 28 phường Hoàng Văn T, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.

4. Bà Đặng Thị Q, sinh năm 1961.

Trú tại: Thôn 4, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội.

5. Ông Đặng Văn K, sinh năm 1964.

Trú tại: Số nhà 143/274 phố Nguyễn Chính, phường Thịnh L, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.

6. Bà Đặng Thị B, sinh năm 1967.

Trú tại: Thôn 7, xã Trung Ch, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.

7. Ông Đặng Hồng Qu, sinh năm 1974.

Trú tại: Số nhà 33, ngõ 63/59 Cổ Linh, tổ 4 phường Thạch B, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội.

Do có kháng cáo của cụ Doãn Thị L là bị đơn, bà Đặng Thị Q, ông Đặng Văn K, bà Đặng Thị B, ông Đặng Hồng Qu là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

* Nguyên đơn ông Đặng Văn B trình bày:

Bố mẹ ông là cụ Đặng Quang M (Tên thường gọi là ông Đặng Văn T), sinh năm 1933 (chết năm 2020) và cụ Doãn Thị L, sinh năm 1937. Bố mẹ ông sinh được được 06 người con gồm:

Ông Đặng Văn P, sinh năm 1957 (chết năm 2010); ông P có vợ là bà Chu Thị Y, sinh năm 1959 và 02 người con là anh Đặng Việt B, sinh năm 1987 và anh Đặng Trung H, sinh năm 1989. Bà Đặng Thị Q, sinh năm 1961; ông Đặng Văn K, sinh năm 1964; bà Đặng Thị B, sinh năm 1967; ông Đặng Văn B, sinh năm 1971 và ông Đặng Hồng Qu, sinh năm 1974. Bố mẹ ông không có con nuôi hay con ngoài giá thú nào khác. Bố mẹ của cụ M cũng đã chết từ lâu.

Quá trình chung sống, bố mẹ ông có mua được tài sản là thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a, diện tích 1045m2 (Bao gồm 720m2 đất ở và 325m2 đất vườn) tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội. Đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A417521, số vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00680 QSDĐ do Phòng nông nghiệp huyện Pc Thọ, tỉnh Hà Tây (Nay là Thành phố Hà Nội) cấp ngày 24/12/1991 cho ông Đặng Văn T. Ngày 05/4/2021 được UBND huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội đính chính nội dung họ tên chủ sử dụng đất tại trang 4 GCNQSDĐ từ ông Đặng Văn T thành ông Đặng Quang M. Theo Tờ trình số 779/TTr-CNHPT ngày 31/3/2021 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Pc Thọ.

Tháng 9/2020, cụ Đặng Quang M chết. Cụ M không để lại di chúc. Nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế là thửa đất số 5a, tờ bản đồ số 16, diện tích 1045m2 đất tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội cho những người trong hàng thừa kế thứ nhất của cụ M. Ông đề nghị được nhận bằng hiện vật.

- Bị đơn cụ Doãn Thị L trình bày:

Năm 1955, cụ kết hôn cùng cụ Đặng Quang M (Tên thường gọi là ông Đặng Văn T) và sinh sống tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ. Vợ chồng cụ sinh được 06 người con như nguyên đơn trình bày.

Các con của hai cụ đều đã trưởng thành, lập gia đình riêng. Ông P đã chết năm 2010. Ông P có vợ là bà Chu Thị Y, cùng 02 người con là anh Đặng Việt B và anh Đặng Trung H. Ngoài ra, hai cụ không có con nuôi, con ngoài giá thú nào khác. Bố mẹ của hai cụ cũng đều đã chết từ lâu.

Quá trình chung sống, đến năm 1960 vợ chồng cụ mua được tài sản là thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a diện tích 1045m2 tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ. Trước đây, khu đất này có một nửa là đất ao và do công sức vun đắp cải tạo nhiều năm mới được khu vườn vuông vắn như hiện nay. Sau 30 năm sử dụng đến tháng 12/1991, Nhà nước có chủ trương cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho vợ chồng cụ nên thửa đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A417521, số vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00680 QSDĐ do Phòng nông nghiệp huyện Pc Thọ, tỉnh Hà Tây (Nay là Thành phố Hà Nội) cấp ngày 24/12/1991 cho ông Đặng Văn T. Ngày 05/4/2021 được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội đính chính nội dung họ tên chủ sử dụng đất tại trang 4 GCNQSDĐ từ ông Đặng Văn T thành ông Đặng Quang M. Theo Tờ trình số 779/TTr-CNHPT ngày 31/3/2021 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Pc Thọ. Cụ cũng có thắc mắc với cán bộ địa chính là tại sao không có tên cụ cùng với tên của cụ M trong GCNQSDĐ thì địa chính trả lời chỉ ghi một mình tên chồng là đủ.

Đến ngày 10/9/2020, cụ Đặng Quang M chết. Cụ M chết không để lại di chúc. Cụ có gọi các con đến để giải quyết việc phân chia đất cho các con. Quan điểm của cụ là chia thửa đất trên làm hai phần, một phần của cụ còn một phần của cụ M. Phần của cụ M thì chia làm 5 phần cho 4 người con trai và cụ 1 phần. Còn các con gái đã đi lấy chồng thì không có phần đất ở đây. Đây cũng chính là ý định của vợ chồng cụ bàn nhau lúc chồng cụ M còn sống nhưng các con không đồng ý. Người thì đòi chỉ chia đất cho 4 con trai, người thì bảo là con gái cũng phải có phần đất ở đó nên không thực hiện được việc chia đất. Nay con trai cụ là ông Đặng Văn B khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chia di sản thừa kế là thửa đất số 5a, tờ bản đồ số 16 diện tích 1045m2 của chồng cụ là cụ Đặng Quang M để lại. Đây là tài sản của vợ chồng cụ tạo lập được trong thời kỳ hôn nhân nên có phần của cụ trong đó. Quan điểm của cụ là đồng ý chia di sản thừa kế là phần đất của chồng cụ cho các con, còn phần đất của cụ thì giữ nguyên.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên qua ông Đặng Văn K trình bày:

Bố mẹ ông là cụ Đặng Quang M và cụ Doãn Thị L. Về thông tin của các con cụ M, cụ L thì đúng như ông B trình bày.

Từ khi còn nhỏ thì gia đình ông sống tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a, diện tích 1045m2 tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội.

Đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A417521 số vào sổ cấp GCNQSDĐ, số 00680 QSDĐ do Phòng nông nghiệp huyện Pc Thọ, tỉnh Hà Tây (Nay là Thành phố Hà Nội) cấp ngày 24/12/1991 cho ông Đặng Văn T. Ngày 05/4/2021 được UBND huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội đính chính nội dung họ tên chủ sử dụng đất tại trang 4 GCNQSDĐ từ ông Đặng Văn T thành ông Đặng Quang M. Theo Tờ trình số 779/TTr-CNHPT ngày 31/3/2021 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Pc Thọ. Ông tìm hiểu thì thửa đất này có nguồn gốc là của tổ tiên để lại cho cụ M. Thửa đất này được các cụ chuyển giao cho bố ông trước khi cụ M kết hôn với cụ L.

Năm 2020, cụ Đặng Quang M chết không để lại di chúc. Cụ M có nói mồm và căn dặn lại là mảnh đất này muốn xây một nhà thờ chung cho các con về thắp hương còn lại bao nhiêu thì chia cho các con. Khi cụ M chết được 100 ngày thì cụ L đề xuất chia đất nhưng gia đình không thống nhất được với nhau về việc chia thế nào. Sau đó, cụ L làm đơn ra UBND xã Vân N để chia tài sản, UBND xã Vân N có hòa giải nhưng không đạt được kết quả.

Nay em trai ông là ông Đặng Văn B khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện Pc Thọ yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ M để lại, ông không đồng ý vì ông muốn để bốc mộ cụ M xong, cụ L chết đi thì anh em tự giải quyết với nhau.

- Bà Chu Thị Y trình bày: Bà là vợ ông Đặng Văn P (Chết năm 2010). Chồng bà là con trai cả của cụ Đặng Quang M và cụ Doãn Thị L. Cụ M và cụ L có sinh được 06 người con như nguyên đơn trình bày. Từ trước đến nay, gia đình cụ M, cụ L sống tại thửa đất ở xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội. Về thông tin thửa đất thì bà cũng không rõ. Khi kết hôn với ông P thì vợ chồng bà sinh sống, làm ăn ở nội thành Hà Nội và sinh được 02 người con là anh Đặng Việt B, sinh năm 1987 và anh Đặng Trung H, sinh năm 1989. Năm 2020, cụ Đặng Quang M chết. Bà cũng không biết là cụ M có để lại di chúc hay căn dặn gì không vì bà là con dâu, cụ M chủ yếu nói với các con trai là chính. Nay ông Đặng Văn B khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện Pc Thọ yêu cầu chia di sản của cụ M để lại thì bà đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp luật. Vì chồng bà là con trai cả nên bà cũng muốn có một ít đất để thờ cúng tổ tiên.

- Anh Đặng Trung H đồng ý với ý kiến của bà Y. Anh đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

- Bà Đặng Thị Q trình bày: Bà là con đẻ của cụ Doãn Thị L và cụ Đặng Văn M (Tên thường gọi là T). Bố mẹ bà sinh được 06 người con như nguyên đơn trình bày.

Năm 2020, cụ M chết, không để lại di chúc. Trong quá trình chung sống, bố mẹ bà tạo lập được tài sản là diện tích đất 1045m2 tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội. Về thông tin Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà cũng không rõ. Nay em trai bà là ông Đặng Văn B yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ M để lại thì bà đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Do bà vừa đi mổ não về, sức khỏe yếu, trí nhớ kém nên chỉ cung cấp được ít thông tin như trên cho Tòa án biết để giải quyết vụ án. Do vấn đề sức khỏe, đi lại khó khăn nên bà xin phép được vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

Ông Qu không có lời khai tại Tòa án.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2023/DSST ngày 18/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội đã quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn B về việc chia di sản thừa kế của cụ Đặng Quang M theo luật.

2. Xác định thời điểm mở thừa kế của cụ Đặng Quang M là năm 2020.

3. Xác định những người được hưởng thừa kế theo luật của cụ Đặng Quang M gồm có: Cụ Doãn Thị L, ông Đặng Văn P, bà Đặng Thị Q, ông Đặng Văn K, bà Đặng Thị B, ông Đặng Văn B và ông Đặng Hồng Qu. Ông P chết năm 2010 nên phần di sản thừa kế mà ông P được hưởng sẽ chia cho 02 con của ông P là anh Đặng Việt B và anh Đặng Trung H.

4. Xác định di sản của cụ Đặng Quang M để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội. Đất đã được cấp GCNQSDĐ đất số A417521 số vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00680 QSDĐ do Phòng nông nghiệp huyện Pc Thọ, tỉnh Hà Tây (Nay là Thành phố Hà Nội) cấp ngày 24/12/1991 cho ông Đặng Văn T. Ngày 05/4/2021 được UBND huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội đính chính nội dung họ tên chủ sử dụng đất tại trang 4 GCNQSDĐ từ ông Đặng Văn T thành ông Đặng Quang M theo Tờ trình số 779/TTr-CNHPT ngày 31/3/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Pc Thọ.

5. Tính công sức của cụ Doãn Thị L trong việc tôn tạo, gìn giữ thửa đất là 100m2 đất. Như vậy di sản của cụ Đặng Quang M còn lại là 913.5m2 đất, chia cho 07 suất thừa kế, mỗi suất được 130.5m2 đất (Trong đó là có 100m2 đất ở và 30.5m2 đất vườn). Cụ thể như sau:

+ Giao cho cụ Doãn Thị L diện tích 230,5m2 đất thuộc thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội. (Trong đó có 200m2 đất ở và 30.5m2 đất vườn). Có giá trị là: 1.491.500.000 đồng.

+ Giao cho ông Đặng Văn K, bà Đặng Thị Q, bà Đặng Thị B, ông Đặng Văn B, Đặng Hồng Qu mỗi người diện tích là 130.5m2 đất (Trong đó có 100m2 đất ở và 30.5m2 đất vườn) thuộc thửa đất số số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội. Mỗi người được giao đất có giá trị là 791.500.000 đồng.

+ Giao cho anh Đặng Việt B và anh Đặng Trung H diện tích 130.5m2 đất (Trong đó có 100m2 đất ở và 30.5m2 đất vườn) thuộc thửa đất số số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội. Có giá trị là 791.500.000 đồng.

Việc giao đất có sơ đồ kèm theo bản án.

Đối với phần nhà ở và các công trình xây dựng trên đất đã hết giá trị khấu hao, hết giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng thấp thì phần đất được chia cho ai mà trên đất có nhà và các công trình xây dựng khác thì người đó phải tự tháo dỡ và tự chịu chi phí tháo dỡ. Đối với các cây cối trên đất, phần đất được giao cho ai có cây gì thì giao cho người đó quản lý, sử dụng.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, cụ Doãn Thị L, ông Đặng Văn K, bà Đặng Thị Q, bà Đặng Thị B, ông Đặng Văn B, Đặng Hồng Qu, anh Đặng Việt B và anh Đặng Trung H tự liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đã được giao.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm, bị đơn cụ Doãn Thị L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Đặng Thị Q, ông Đặng Văn K, bà Đặng Thị B, ông Đặng Hồng Qu kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa:

Bị đơn là cụ Doãn Thị L xin xét xử vắng mặt. HĐXX công bố đơn kháng cáo của cụ L. Cụ L đề nghị HĐXX: Huỷ án sơ thẩm. Xác định toàn bộ diện tích 1013,5m2 đất tại thửa số 16, tờ bản đồ số 5a thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội là tài sản chung của cụ L và cụ M; Chia tài sản chung vợ chồng cụ và cụ M để cụ được hưởng phần tài sản của cụ. Di sản của cụ M chia đều cho cụ và 6 người con theo luật do cụ M chết không để lại di chúc. Cụ có nguyện vọng nhận di sản bằng hiện vật.

Nguyên đơn ông B thống nhất với ý kiến của cụ L. Đề nghị HĐXX trích công sức cho cụ L vì cụ L có nhiều công sức trong việc tôn tạo đất.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đặng Văn K trình bày:

Thửa số 16, tờ bản đồ số 5a thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội có nguồn gốc của bố mẹ cụ M mua cho cụ M trước khi cụ M kết hôn với cụ L. Đề nghị HĐXX xác định khối tài sản này là tài sản riêng của cụ M, chia di sản của cụ M cho cụ L và các con theo quy định của pháp luật và không trích công sức cho cụ L.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đặng Văn Qu trình bày:

Ông không được Toà án cấp sơ thẩm triệu tập hợp lệ nên không được tham gia tố tụng tại cấp sơ thẩm. Về nguồn gốc thửa đất ông thống nhất với ý kiến của ông K. Đề nghị HĐXX chia di sản của cụ M cho cụ L và các con theo quy định của pháp luật và không trích công sức cho cụ L.

Ông rút yêu cầu chia số tiền 90.000.000 đồng và 15.000.000 đồng tiền mai táng của cụ M; chia 540m2 đất nông nghiệp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị Q, bà Đặng Thị B thống nhất với ý kiến của ông K.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Y, anh H, anh B vắng mặt tại phiên tòa, HĐXX công bố lời khai của các đương sự vắng mặt.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện VKS nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị HĐXX áp dụng Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2023/DSST ngày 18/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội theo hướng xác định toàn bộ diện tích đất tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a diện tích tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ là tài sản chung của cụ L và cụ M.

Chia tài sản chung vợ chồng mỗi người được ½.

Chia di sản của cụ M theo quy định của pháp luật cho cụ L và 6 người con.

Chia bằng hiện vật cho các thừa kế.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn là cụ Doãn Thị L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Đặng Thị Q, ông Đặng Văn K, bà Đặng Thị B, ông Đặng Hồng Qu nộp trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.

Về tố tụng: Bà Y, anh H, anh B đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên toà. HĐXX xét xử vắng mặt bà Y, anh H, anh B theo quy định tại Điều 296 BLTTDS.

Tài liệu trong hồ sơ thể hiện Toà án cấp sơ thẩm đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Qu. Không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Qu về nội dung này.

Về nội dung:

Về diện, hàng thừa kế Vợ chồng cụ Doãn Thị L và cụ Đặng Quang M sinh được 06 người con gồm ông Đặng Văn P, sinh năm 1957; bà Đặng Thị Q, sinh năm 1961; ông Đặng Văn K, sinh năm 1964; bà Đặng Thị B, sinh năm 1967; ông Đặng Văn B, sinh năm 1971 và ông Đặng Hồng Qu, sinh năm 1974. Ông P chết năm 2010, ông P có vợ là bà Chu Thị Y và 02 con là anh Đặng Việt B và anh Đặng Trung H. Ngoài ra, hai cụ không có con nuôi hay con ngoài giá thú nào khác, bố mẹ hai cụ cũng đều đã chết từ lâu.

Tháng 9/2020, cụ Đặng Quang M chết, không để lại di chúc, vì vậy di sản thừa kế của cụ M sẽ được phân chia theo quy định của pháp luật.

Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Đặng Quang M gồm có vợ là cụ Doãn Thị L và 06 người con gồm ông Đặng Văn P, bà Đặng Thị Q, ông Đặng Văn K, bà Đặng Thị B, ông Đặng Văn B và ông Đặng Hồng Qu. Những người này sẽ được hưởng thừa kế đối với di sản thừa kế của cụ M để lại theo quy định tại các Điều 649, 650, 651 của Bộ luật dân sự. Ông P chết năm 2010 (chết trước cụ M) nên phần di sản thừa kế mà ông P được hưởng sẽ do 02 con của ông P là anh Đặng Việt B và anh Đặng Trung H thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 652 của Bộ luật dân sự.

Về di sản:

Cụ L và ông B trình bày thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội có nguồn gốc do cụ M và cụ L mua. Ông K trình bày thửa đất này có nguồn gốc của tổ tiên cụ M để lại cho cụ M trước khi cụ M kết hôn cùng với cụ L.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã có Công văn số: 150/CV-TA ngày 24/5/2023 về việc thu thập tài liệu, chứng cứ gửi UBND xã Vân N để tìm hiểu về nguồn gốc của thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội. Ngày 08/6/2023, UBND xã Vân N huyện Pc Thọ cung cấp: Qua kiểm tra hồ sơ, tài liệu lưu trữ tại UBND xã đối với thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a đã được cấp GCNQSDĐ số A417521, số vào sổ 00680, tên người sử dụng đất trên Giấy chứng nhận là ông Đặng Văn T, diện tích 1045m2 (Mục đích sử dụng đất ở 720m2, đất vườn 325m2). Về nguồn gốc thửa đất theo Sổ mục kê, Sổ đăng ký ruộng đất năm 1992 thì thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a, diện tích 1045m2 (Trong đó đất ở 720m2, đất vườn 325m2) tên người sử dụng đất là ông Đặng Văn T. Bảng Đơn đăng ký sử dụng ruộng đất người khai là ông Đặng Văn T ký tên ngày 19/10/1991 có ghi ở mục “Nguồn gốc chiếm dụng ruộng đất” là “Đất do ông cha để lại cho”.

Thửa đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A417521, số vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00680 QSDĐ do Phòng nông nghiệp huyện Pc Thọ, tỉnh Hà Tây (Nay là Thành phố Hà Nội) cấp ngày 24/12/1991 cho ông Đặng Văn T. Ngày 05/4/2021 được UBND huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội đính chính nội dung họ tên chủ sử dụng đất tại trang 4 GCNQSDĐ từ ông Đặng Văn T thành ông Đặng Quang M. Theo Tờ trình số 779/TTr-CNHPT ngày 31/3/2021 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Pc Thọ.

Theo cụ L trình bày, cụ kết hôn cùng cụ Đặng Quang M năm 1955. Người con đầu của hai cụ là ông Đặng Văn P, sinh năm 1957. Lời trình bày của cụ L về thời điểm kết hôn với cụ M là có căn cứ chấp nhận. Theo quy định tại Điều 15 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959: Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới. Như vậy, toàn bộ diện tích đất trên là tài sản chung vợ chồng cụ L và cụ M. Bản án sơ thẩm xác định toàn bộ khối tài sản trên là di sản của cụ M là không phù hợp với quy định nên chấp nhận kháng cáo của cụ L, sửa án sơ thẩm về nội dung này.

- Tài sản chung của cụ L và cụ M là quyền sử dụng thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội. Theo GCN diện tích 1045m2 (Mục đích sử dụng đất ở 720m2, đất vườn 325m2), tỉ lệ đất ở là 69%, đất vườn là 31%. Theo kết quả đo thực tế diện tích đất là 1013,5m2, tỉ lệ đất ở có diện tích là 698,30m2, đất vườn có diện tích là 315,20m2. Tài sản trên đất cũ hỏng các đương sự không yêu cầu nên không xét.

Theo kết quả định giá giá trị quyền sử dụng đất ở là 7.000.000đ/m2, đất vườn là 3.000.000/m2. Tổng giá trị quyền sử dụng đất là 5.833.686.603 đồng.

Chia tài sản chung vợ chồng cụ L, cụ M, theo đó mỗi cụ được nhận 5.833.686.603 đồng : 2 = 2.916.843.301 đồng.

Chia thừa kế di sản của cụ M:

Cụ M chết không để lại di chúc, chia thừa kế di sản của cụ M theo luật cho hàng thừa kế thứ nhất của cụ gồm: Cụ L và 6 người con. Kỷ phần thừa kế của ông P sẽ do anh Đặng Việt B và anh Đặng Trung H được hưởng.

Cụ M chết năm 2020, sau khi cụ M chết, cụ L không sửa chữa tôn tạo nhà đất nên không trích công sức tôn tạo cho cụ L.

Chia giá trị:

Mỗi kỷ phần thừa kế được hưởng : 2.916.843.301 đồng : 7 = 416.691.900 đồng.

Cụ L được chia tài sản chung là 2.916.843.301 đồng và 1 kỷ phần thừa kế của cụ M 416.691.900 đồng, tổng được nhận 3.333.535.202 đồng.

Ông K, bà Q, bà B, ông Qu, ông B, con ông P mỗi người được nhận 1 kỷ phần thừa kế của cụ M là 416.691.900 đồng.

Chia bằng hiện vật:

- Giao cụ L sử dụng 563,5m2 đất (trong đó 388,25m2 đất ở, 175,25m2 đất vườn) tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội có giá trị 3.243.495.215 đồng. Được giới hạn bởi các điểm 1, 2, 3, 4, 5, 12, 1’, 1 trên sơ đồ kèm theo bản án Do diện tích đất còn lại không đủ điều kiện chia cho từng thừa kế theo quy định của UBND Thành phố Hà Nội nên chia diện tích đất còn lại cho các thừa kế cụ thể như sau:

- Giao ông B và thừa kế thế vị của ông P sử dụng chung 150m2 đất (trong đó 103,35m2 đất ở; 46,65m2 đất vườn) tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội có giá trị 863.397.129 đồng (mỗi người được sử dụng 1/2), có vị trí giáp đất giao cụ L. Được giới hạn bởi các điểm 5, 6, 11, 12, 5 trên sơ đồ kèm theo bản án.

- Giao bà B và bà Q sử dụng chung 150m2 đất (trong đó 103,35m2 đất ở; 46,65m2 đất vườn) tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội có giá trị 863.397.129 đồng (mỗi người được sử dụng 1/2), có vị trí giáp đất giao ông B và thừa kế thế vị của ông P. Được giới hạn bởi các điểm 6, 7, 10, 11, 6 trên sơ đồ kèm theo bản án

- Giao ông K và ông Qu sử dụng chung 150m2 đất (trong đó 103,35m2 đất ở; 46,65m2 đất vườn) tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội có giá trị 863.397.129 đồng (mỗi người được sử dụng 1/2), có vị trí giáp đất giao bà B, bà Q. Được giới hạn bởi các điểm 7, 8, 9, 10, 7 trên sơ đồ kèm theo bản án.

Đối với phần nhà ở và các công trình xây dựng trên đất đã hết giá trị khấu hao, hết giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng còn lại thấp thì phần đất được chia cho ai mà trên đất có nhà và các công trình xây dựng khác thì người đó phải tự tháo dỡ và tự chịu chi phí tháo dỡ. Đối với các cây cối trên đất, phần đất được chia cho ai có cây gì thì giao cho người đó quản lý, sử dụng.

Đối trừ chênh lệch:

Cụ L được nhận tổng giá trị tài sản là 3.333.535.202 đồng. Tài sản cụ được giao có giá trị 3.243.495.215 đồng, còn thiếu 90.039.987 đồng.

Ông B và thừa kế thế vị của ông P, bà B và bà Q, ông K và ông Qu mỗi người được nhận kỷ phần thừa kế có giá trị 416.691.900 đồng. Tài sản được chia chung có giá trị 863.397.129 đồng. Dư 30.013.329 đồng.

Ông B, thừa kế thế vị của ông P, bà B, bà Q, ông K và ông Qu mỗi người phải thanh toán cho cụ L 15.006.664 đồng.

Cụ Doãn Thị L, ông Đặng Văn K, bà Đặng Thị Q, bà Đặng Thị B, ông Đặng Văn B, Đặng Hồng Qu, anh Đặng Việt B và anh Đặng Trung H có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đã được giao.

Tại phiên tòa ông Qu rút yêu cầu chia số tiền 90.000.000 đồng; 15.000.000 đồng và diện tích 540m2 đất ruộng nên đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo này.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phù hợp với nhận định của HĐXX.

Chấp nhận một phần kháng cáo của cụ L, ông K, ông Qu, bà Q, bà B.

Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm:

Do sửa án sơ thẩm nên các đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được nhận lại dự phí đã nộp.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Do cụ Doãn Thị L và bà Đặng Thị Q là người cao tuổi nên được miễn án phí theo quy định.

Ông Đặng Văn K, ông Đặng Văn B, ông Đặng Hồng Qu, bà Đặng Thị B, anh Đặng Việt B và anh Đặng Trung H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với giá trị di sản được chia.

Vì các lẽ trên, áp dụng Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2023/DSST ngày 18/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Các Điều 609, 611, 612, 613, 614, 649, 650, 651, 652 Bộ luật dân sự;

- Luật người cao tuổi.

- Điểm đ Khoản 1 Điều 12, Điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí tòa án.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia thừa kế của nguyên đơn ông Đặng Văn B về việc chia di sản thừa kế của cụ Đặng Quang M theo luật.

1. Xác định tài sản chung của cụ Đặng Quang M, cụ Doãn Thị L là quyền sử dụng 1045m2 đất (đo thực tế 1013,5m2) tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội. Đất đã được cấp GCNQSDĐ đất số A417521 số vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00680 QSDĐ do Phòng nông nghiệp huyện Pc Thọ, tỉnh Hà Tây (Nay là Thành phố Hà Nội) cấp ngày 24/12/1991 cho ông Đặng Văn T. Ngày 05/4/2021 được UBND huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội đính chính nội dung họ tên chủ sử dụng đất tại trang 4 GCNQSDĐ từ ông Đặng Văn T thành ông Đặng Quang M theo Tờ trình số 779/TTr-CNHPT ngày 31/3/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Pc Thọ. Có tổng giá trị là 5.833.686.603 đồng.

2. Chia tài sản chung vợ chồng cụ L, cụ M mỗi cụ được nhận ½ giá trị là 2.916.843.301 đồng.

3. Chia thừa kế di sản của cụ M:

Cụ M chết năm 2020, thời điểm mở thừa kế là năm 2020.

Cụ M chết không để lại di chúc, chia thừa kế di sản của cụ M theo luật cho hàng thừa kế thứ nhất gồm: Cụ Doãn Thị L, bà Đặng Thị Q, ông Đặng Văn K, ông Đặng Văn B, ông Đặng Hồng Qu, bà Đặng Thị B, anh Đặng Việt B và anh Đặng Trung H.

Di sản của cụ M để lại có giá trị 2.916.843.301 đồng.

Chia giá trị: Mỗi kỷ phần thừa kế được hưởng 2.916.843.301 đồng : 7 = 416.691.900 đồng. Cụ L được chia tài sản chung là 2.916.843.301 đồng và hưởng 1 kỷ phần thừa kế của cụ M là 416.691.900 đồng, tổng được nhận 3.333.535.202 đồng.

Ông K, bà Q, bà B, ông Qu, ông B, con ông P mỗi người được nhận 1 kỷ phần thừa kế của cụ M có giá trị là 416.691.900 đồng.

Chia bằng hiện vật:

- Giao cụ Doãn Thị L sử dụng 563,5m2 đất (trong đó 388,25m2 đất ở, 175,25m2 đất vườn) tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội có giá trị 3.243.495.215 đồng. Được giới hạn bởi các điểm 1, 2, 3, 4, 5, 12, 1’, 1 trên sơ đồ kèm theo bản án.

- Giao ông Đặng Văn B và thừa kế thế vị của ông P là anh Đặng Hồng Qu, anh Đặng Việt B sử dụng chung 150m2 đất (trong đó 103,35m2 đất ở; 46,65m2 đất vườn) tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội có giá trị 863.397.129 đồng (mỗi người được sử dụng 1/2) có vị trí giáp đất giao cụ L. Được giới hạn bởi các điểm 5, 6, 11, 12, 5 trên sơ đồ kèm theo bản án.

- Giao bà Đặng Thị B và bà Đặng Thị Q sử dụng chung 150m2 đất (trong đó 103,35m2 đất ở; 46,65m2 đất vườn) tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội có giá trị 863.397.129 đồng (mỗi người được sử dụng 1/2) có vị trí giáp đất giao ông B và thừa kế thế vị của ông P. Được giới hạn bởi các điểm 6, 7, 10, 11, 6 trên sơ đồ kèm theo bản án

- Giao ông Đặng Văn K và ông Đặng Văn Qu sử dụng chung 150m2 đất (trong đó 103,35m2 đất ở; 46,65m2 đất vườn) tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 5a tại thôn 6, xã Vân N, huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội có giá trị 863.397.129 đồng (mỗi người được sử dụng 1/2) có vị trí giáp đất giao bà B, bà Q. Được giới hạn bởi các điểm , 8, 9, 10, 7 trên sơ đồ kèm theo bản án.

Đối với phần nhà ở và các công trình xây dựng trên đất đã hết giá trị khấu hao, hết giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng còn lại thấp thì phần đất được chia cho ai mà trên đất có nhà và các công trình xây dựng khác thì người đó phải tự tháo dỡ và tự chịu chi phí tháo dỡ. Đối với các cây cối trên đất, phần đất được chia cho ai có cây gì thì giao cho người đó quản lý, sử dụng.

Đối trừ chênh lệch:

Cụ L được nhận tổng giá trị tài sản là 3.333.535.202 đồng. Tài sản cụ được giao có giá trị 3.243.495.215 đồng, còn thiếu 90.039.987 đồng.

Ông B và thừa kế thế vị của ông P, bà B và bà Q, ông K và ông Qu mỗi người được nhận kỷ phần thừa kế có giá trị 416.691.900 đồng. Tài sản được chia chung có giá trị 863.397.129 đồng. Dư 30.013.329 đồng.

Ông B, thừa kế thế vị của ông P, bà B, bà Q, ông K và ông Qu mỗi người phải thanh toán cho cụ L 15.006.664 đồng.

Cụ Doãn Thị L, ông Đặng Văn K, bà Đặng Thị Q, bà Đặng Thị B, ông Đặng Văn B, Đặng Hồng Qu, anh Đặng Việt B và anh Đặng Trung H có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đã được giao.

- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Qu đối với số tiền 90.000.000 đồng; 15.000.000 đồng và diện tích 540m2đất ruộng.

4. Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm:

- Cụ Doãn Thị L, ông Đặng Văn K, bà Đặng Thị Q, bà Đặng Thị B, Đặng Hồng Qu không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được nhận lại dự phí đã nộp tại Biên lai thu số 0042170; 0042171; 0042172 ngày 30/8/2022 của Chi cục thi hành án huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Miễn án phí dân sự cho cụ Doãn Thị L và bà Đặng Thị Q.

Ông Đặng Văn K, bà Đặng Thị B, ông Đặng Văn B, ông Đặng Hồng Qu mỗi người phải chịu 20.667.676 đồng tiền án phí dân sự. Anh Đặng Việt B và anh Đặng Trung H mỗi người phải chịu 10.333.838 đồng tiền án phí dân sự.

Đối trừ vào số tiền 12.000.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lại thu số 0040157 ngày 17/02/2022 của Chi cục thi hành án huyện Pc Thọ, Thành phố Hà Nội, ông B còn phải nộp tiếp 8.667.676 đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp chia thừa kế số 02/2024/DS-PT

Số hiệu:02/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:04/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về