Bản án về tranh chấp chia thừa kế số 01/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VY, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 01/2023/DS-ST NGÀY 06/01/2023 VỀ TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ

Ngày 06 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố VY xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 31/2022/TLST-DS ngày 29 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp chia thừa kế”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2022/QĐST-DS ngày 29 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Tô Văn B, sinh năm 1966; địa chỉ: Tổ dân phố Lai Sơn, phường ĐT, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc, (có mặt).

Người đại diện theo uỷ quyền của ông B là anh Nguyễn Quốc T, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn Chám, xã Định Trung, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc theo văn bản uỷ quyền ngày 29/3/2022, (có mặt);

- Bị đơn: Anh Tô Văn H, sinh năm 1994; Địa chỉ: Tổ dân phố Lai Sơn, phường ĐT, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Tô Thị P, sinh năm 1952; (vắng mặt).

+ Bà Tô Thị D, sinh năm 1964; (vắng mặt).

+ Anh Tô Quang Th, sinh năm 1984; (vắng mặt).

+ Chị Tô Thị Th, sinh năm 1986; (vắng mặt).

Đều ở địa chỉ: Tổ dân phố Lai Sơn, phường ĐT, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc.

+ Bà Tô Thị L, sinh năm 1959; (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố 3, phường Nông Trang, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

+ Ông Tô Văn Kh, sinh năm 1962; (vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ dân phố Lai Sơn, phường ĐT, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc + Chị Tô Thị Th3, sinh năm 1988; (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn Đoàn Kết 2, xã ĐT, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.

+ Chị Tô Thị Th2, sinh năm 1993; (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố Bê Tông, xã ĐT, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Người đại d iện theo ủy quyền của bà Phạm, bà D, bà L, ông Kh, anh Th, chị Th, chị Th1 và chị Th2: Anh Nguyễn Quốc T, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn Chám, xã ĐT, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/3/2022, và quá trình tố tụng, nguyên đơn cụ ông Tô Văn B và người đại diện theo uỷ quyền của ông B trình bày: Bố ông B là cụ Tô Văn Đ chết năm 1996 và cụ Nguyễn Thị T chết năm 2020, trong thời kỳ hôn nhân, bố mẹ ông B sinh được 07 người con gồm: Bà Tô Thị P, ông Tô Văn V (ông V chết năm 2006; ông V có 04 người con gồm anh Tô Văn Th, chị Tô Thị Th, chị Tô Thị Th3, chị Tô Thị H); bà Tô Thị L; ông Tô Văn Kh; bà Tô Thị D và ông Tô Văn Ch (ông Ch chết năm 2004, ông Ch có 02 người con là Tô Thị H (chết năm 2004, anh Tô Văn H) và ông Tô Văn B. Theo bản án dân sự số 29/2018/DS- ST ngày 27/12/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Tô Văn Ch và chia thừa kế phần di sản của cụ Tô Văn Đ theo quy định của pháp luật, cụ thể cụ Nguyễn Thị T được quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất 435m2 (trong đó 300m2 đất ở và 135m2 đất vườn) hiện trạng sử dung thực tế là 453,2m2 Thộc thửa đất số 176, tờ bản đồ số 31; địa chỉ tại tổ dân phố Lai Sơn, phường ĐT, thành phố VY và cụ T có nghĩa vụ thanh toán cho anh Tô Văn H số tiền 25.031.500đ. Tại giấy xác nhận thi hành án số 573/GXN-THADS ngày 06/3/2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Phúc đã xác nhận kết quả thi hành án cụ Nguyễn Thị T đã thi hành xong án phí dân sự là 7.500.000đ và 25.032.500đ thanh toán cho anh Tô Văn H. Sau khi cụ T hoàn thành xong thủ tục thi hành án, cụ T đã làm các thủ tục đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất trên, nhưng khi cụ T đang làm thủ tục thì cụ T chết, trước khi chết cụ không để lại di chúc hay phân chia tài sản trên cho bất kỳ ai. Sau khi cụ T chết gia đình ông B đã nhiều lần họp gia đình để phân chia khối d i sản trên của cụ T để lại nhưng anh H không đồng ý nên, gia đình không tự phân chia di sản của cụ T để lại được.

Nay ông Tô Văn B khởi kiện đề nghị Toà án phân chia di sản thừa kế c ủa cụ Nguyễn Thị T. Cụ thể: Tài sản cụ T để lại theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 04/8/2022 là 453,2m2 đất Thộc thửa đất số 176, tờ bản đồ số 31; địa c hỉ tại tổ dân phố Lai Sơn, phường ĐT, thành phố VY và toàn bộ cây cối lâm lộc tài sản trên đất để lại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà ông B và người đại d iện theo uỷ quyền của nguyên đơn, đề nghị Hộ i đồng xét xử chia thừa kế diện tích đất của cụ T để lại theo quy đ ịnh của pháp luật và không yêu cầu chia d i sản là cây cối lâm lộc trên đất vì một số cây có giá trị không lớn và không có giá trị kinh tế.Tuy nhiên, ông B và người đại d iện theo uỷ quyền của nguyên đơn đề nghị chia toàn bộ diện tích đất trên cho ông B và ông B thanh toán kỷ phần anh H được hưởng bằng tiền theo giá do Hội đồng định giá đã định giá.

Bị đơn anh Tô Văn H vắng mặt tại phiên toà, tại bản tự khai anh H trình bày: Anh xác nhận thời gian cụ Nguyễn Th ị T chết và thành phần gia đình như ông Tô Văn B trình bày là đúng và khi cụ T chết không để lại di chúc. Bố anh là ông Tô Văn Ch (chết năm 2004), năm 1991 kết hôn với bà Nguyễn Thị Thông, quá trình chung sống có sinh được anh và chị Tô Thị H (chết năm 2004, khi chết chưa có chồng con), năm 2002 bố mẹ anh ly hôn, thửa đất đang tranh chấp là của ông bà nội anh để lại, được cấp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bố anh là Tô Văn Ch. Theo bản án dân sự số 29/2018/DS- ST ngày 27/12/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Tô Văn Ch (bố anh) và toàn bộ tài sản trên bà nội anh là người quản lý, sử dụng toàn bộ. Nay, ông Tô Văn B khởi kiện chia di sản của cụ Nguyễn Thị T để lại gồm 453,2m2 đất Thộc thửa đất số 176, tờ bản đồ số 31; địa chỉ tại tổ dân phố Lai Sơn, phường ĐT, thành phố VY và toàn bộ cây cối lâm lộc tài sản trên đất theo quy định của pháp luật, anh đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người đại diện theo uỷ quyền của bà Tô Thị P; bà Tô Thị D; bà Tô Thị L; ông Tô Văn Kh; anh Tô Văn Th; chị Tô Thị Th; chị Tô Thị Th3; chị Tô Thị Th2 trình bày: Xác nhận thời gian cụ Nguyễn Thị T chết và thành phần gia đình như ông Tô Văn B trình bày là đúng và khi cụ T chết không để lại di chúc và xác nhận khối di sản cụ Nguyễn Thị T để lại gồm 453,2m2 đất Thộc thửa đất số 176, tờ bản đồ số 31; địa chỉ tại tổ dân phố Lai Sơn, phường ĐT, thành phố VY và toàn bộ cây cối lâm lộc tài sản trên đất. Bà Phạm, bà D, bà L, ông Kh, anh Th, chị Th, chị Th3, chị Th2 đề nghị chia di sản trên theo quy định của pháp luật và phần d i sản của các ông, bà, anh, chị được nhận đều đồng ý tặng cho ông Tô Văn B nhận toàn bộ.

Tại phiên toà người đại diện theo uỷ quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đề nghị Hội đồng xét xử chia thừa kế diện tích đất của cụ T để lại, đối với tài sản và cây cối lâm lộc trên đất giá trị k hông lớn nên không đề nghị chia và đề nghị giao toàn bộ tài sản cho ông Tô Văn B và ông B thanh toán kỷ phần anh H được hưởng bằng tiền giá do Hội đồng định giá đã định giá.

Quá trình tố tụng, Tòa án đã tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần nhưng anh H đều vắng mặt nên không thỏa Thận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân thành phố VY phát biểu và có quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hộ i đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, nguyên đơn, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chấp hành và thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, b ị đơn không chấp hành theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử. Các Điều 26; Đ iều 35; Đ iều 39; Điều 227; Đ iều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 610, Điều 611, Đ iều 612, Điều 614, Điều 623, Điều 649, Điều 650, Đ iều 651, Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức Th, miễn, giảm, Th, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tô Văn B về việc chia d i sản thừa kế của cụ Nguyễn Thị T theo quy định của pháp luật. Về án phí các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật, đối với những người được hưởng di sản thừa kết Thộc đối tượng là người cao tuổi và đề nghị miễn án phí đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên toà bị đơn đã được Toà án triệu tập hơp lệ đến lần thứ 2 đều vắng mặt. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, các giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, thông báo mở lại phiên toà cho bị đơn theo đúng quy đ ịnh nhưng vẫn vắng mặt, việc cố tình vắng mặt của bị đơn gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ vào Đ iều 227, Đ iều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Quá trình giải quyết vụ án, căn cứ vào đơn khởi kiện Tòa án đã thụ lý và xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp về chia thừa kế tài sản ” theo quy định tại khoản 5 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố VY thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 5 Điều 26, Điều 35, khoản 1 Đ iều 36 và khoản 1 Đ iều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[3] Về nội dung: Trên cơ sở tranh tụng tại phiên tòa và các tại liệu Th thập được xác định như sau: Nguồn gốc thửa đất số 176 tờ bản đồ số 31 (theo bản đồ hệ toạ độ VN 2000 Thộc thửa số 35 tờ bản đồ số 69) diện tích 453,2m2 (đo đạc thực tế ngày 04/8/2022) tại Tổ dân phố Lai Sơn, phường ĐT, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc, là của cụ Nguyễn Thị T được chia tại Bản án dân sự số 29/2018/DS- ST ngày 27/12/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc . Quá trình sử dụng đất cụ T đang làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì cụ T chết, khi chết cụ T không để lại di chúc hay phân chia tài sản trên cho bất kỳ ai. Do vậy, xác định di sản của cụ T để lại chưa chia là 453,2m2 (đo đạc thực tế ngày 04/8/2022) tại Tổ dân phố Lai Sơn, phường ĐT, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc có giá trị là 3.172.400.000đ và cây cối lâm lộc trên đất gồm 05 cây xoan đường kính phi 0,3m trị giá 350.000đ và 01 cây bạch đàn trị giá 100.000đ (theo biên bản định giá ngày 04/8/2022), ngoài ra không còn di sản giá trị nào khác. Do cụ T trước khi chết không để lại di chúc hay phân chia tài sản trên cho ai nên toàn bộ di sản của cụ T để lại được chia theo quy định của pháp luật.

[4] Về Hng thừa kế: Cụ Nguyễn Thị T 07 người con gồm: Bà Tô Thị P, ông Tô Văn V; bà Tô Thị L; ông Tô Văn Kh; bà Tô Thị D; ông Tô Văn Ch và ông Tô Văn B. Do vậy, Hng thừa kế thứ nhất của cụ T gồm: Bà Tô Thị P, ông Tô Văn V; bà Tô Thị L; ông Tô Văn Kh; bà Tô Thị D; ông Tô Văn Ch và ông Tô Văn B.

Ông Tô Văn V chết ngày 31/01/2006 (Ông V có 04 người con gồm anh Tô Văn Th, chị Tô Thị Th, chị Tô Thị Th3, chị Tô Thị Hoa); Ông Tô Văn Ch chết ngày 11/8/2004 (ông Ch có 02 người con là Tô Thị H và anh Tô Văn H). Do ông V, ông Ch chết trước cụ Nguyễn Thị T, theo quy định tại Điều 652 của Bộ luật Dân sự thì những người con của ông V, ông Ch chết trước cụ T nên những người con của ông V, ông Ch là người thừa kế thế vị. Do chị Tô Thị H là con của ông Tô Văn Ch chết ngày 08/01/2005 khi chết không có chồng con, do đó anh Tô Văn H là người thừa kế thế vị duy nhất của ông Tô Văn Ch.

[5] Xét yêu cầu chia d i sản thừa kế theo pháp luật của ông Tô Văn B đối với di sản của cụ Nguyễn Thị T để lại, Hộ i đồng xét xử thấy rằng: Tại bản án dân sự số 29/2018/DS- ST ngày 27/12/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Tô Văn Ch và chia thừa kế phần di sản của cụ Tô Văn Đ theo quy định của pháp luật, cụ thể cụ Nguyễn Thị T được quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất 435m2 (trong đó 300m2 đất ở và 135m2 đất vườn) hiện trạng sử dụng thực tế là 453,2m2 Thộc thửa đất số 176, tờ bản đồ số 31; địa chỉ tại tổ dân phố Lai Sơn, phường ĐT, thành phố VY cùng cây cối lâm lộc trên đất là di sản của cụ T để lại chưa chia. Tại thời điểm Toà án xét thẩm định tại chỗ ngày 04/8/2022 trên đất còn có 01 ngôi nH cấp 04 xây năm 1990 đã cũ nát không có ai ở, khi còn sống cụ T ở một mình đến khi chết, Do vậy, những người con, người cháu cụ T không ai có công sức trong việc duy trì tôn tạo tài sản trên sau khi cụ T chết nên các con và cháu của cụ T không được trích công sức duy trì tôn tạo tài sản trên, nên tài sản của cụ T để để lại được chia đều cho các Hng thừa kế của cụ T. Việc ông Tô Văn B yêu cầu chia di sản của cụ T để lại là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Di sản của cụ Nguyễn Thị T để lại gồm là 453,2m2 Thộc thửa đất số 176, tờ bản đồ số 31; địa chỉ tại tổ dân phố Lai Sơn, phường ĐT, thành phố VY có giá trị là 3.172.400.0000đ và cây cố lâm lộc trên đất gồm 05 cây xoan đường kính phi 0,3m trị giá 350.000đ và 01 cây bạch đàn trị giá 100.000đ, ngoài ra không còn tài sản giá trị nào khác. Cụ T có 07 người con theo quy định tại Đ iều 651 của Bộ luật dân sự thì những người cùng Hng thừa kế được hưởng thừa kế như nhau, do đó 453,2m2 đất được chia cho 7 người = 64,742m2 làm tròn = 64,74m2 đất trị giá 453.180.000đ. Do ông Tô Văn V chết trước cụ T nên 04 người con gồm anh Tô Văn Th, chị Tô Thị Th, chị Tô Thị Th3, chị Tô Thị Hoa là người thừa kế thế vị xuất của ông V cụ thể 64,74m2 chia 4 người được hưởng 16,185m2 đất trị giá 113.295.000đ; ông Tô Văn Ch chết trước cụ T nên anh Tô Văn H được một xuất hưởng thừa kế thế vị là 64,74m2. Đối với cây cố lâm lộc trên đất gồm 05 cây xoan đường kính phi 0,3m trị giá 350.000đ và 01 cây bạch đàn trị giá 100.000đ có giá trị không lớn, khi chia thừa kế nằm trên phần đất của người thừa kế nào được chia người đó quản lý sử dụng không phải thanh toán chênh lệch giá trị tài sản cho các thừa kế khác.

Xét đề nghị bà Tô Thị P; bà Tô Thị D; bà Tô Thị L; ông Tô Văn Kh; anh Tô Văn Th; chị Tô Thị Th; chị Tô Thị Th3; chị Tô Thị Th2 chia di sản trên theo quy định của pháp luật và phần di sản của các ông, b à, anh, chị được nhận đều đồng ý tặng cho ông Tô Văn B nhận toàn bộ. Đây là sự tự nguyện của người được hưởng di sản thừa kế nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét yêu cầu chia sản sản thừa kế theo quy định của pháp luật của anh H, Hội đồng xét xử xét thấy, phần d i sản của anh Tô Văn H được chia là 64,74m2 đủ điều kiện về mặt diện tích để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo định tại Quyết đ ịnh số 28/2016/QĐ- UBND năm 2014 sửa đổi bổ sung quyết định 42/2014/QĐ-UBND của UBND tỉnh Vĩnh Phúc ngày 15/9/2014. Để đảm bảo chỗ ở cho anh Tô Văn H. Hộ i đồng xét xử chia cho anh H 64,74m2 (cụ thể 3m x 21,58m = 64,74m2 trong đó có 42m2 đất ở và 22,74m2 đất trồng cây lâu năm) và 01 cây xoan trên đất trị giá 70.000đ và toàn bộ cây cối lâm lộc trên phần đất được chia.

Do bà Tô Thị P; bà Tô Thị D; bà Tô Thị L; ông Tô Văn Kh; anh Tô Văn Th; chị Tô Thị Th; chị Tô Thị Th3; chị Tô Thị Th2 tặng cho ông Tô Văn B nhận toàn bộ di sản được hưởng thừa kế từ cụ T, nên Hội đồng xét xử chia cho ông Tô Văn B toàn bộ diện tích đất còn lại là 388,46m2 (trong đó 258m2 đất ở và 130,46m đất trồng cây lâu năm) trong đó có 18,2m2 đất tăng lên so với diện tích đất trước kia chưa được nH nước công nhận quyền sử dụng đất; 04 cây xoan trên đất trị giá 280.000đ; 01 cây bạch đàn trị giá 100.000đ và toàn bộ cây cối lâm lộc trên phần đất được chia.

Qua xác minh tại địa phương do trước kia đo đạc thủ công để lập bản đồ nên có sự sai sót về diện tích, quá trình sử dụng cụ T sử dụng ổn định lâu dài, không có tranh chấp với các hộ liền kề và không lấn ra ngoài hành lang giao thông, nên phần đất này giao cho ông B quản lý và đề nghị ông B liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được chia thừa kế và diện tích đất tăng thêm theo quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Bà Tô Thị P; bà Tô Thị L; ông Tô Văn Kh Thộc trường hợp “người cao tuổi” nên được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Đ iều 12 của Nghị Quyết số 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức Th, miễn, giảm, Th, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Ông Tô Văn B; bà Tô Thị D; anh Tô Văn Th; chị Tô Thị Th; chị Tô Thị T hỷ; chị Tô Thị T hoa khô ng Thộc trường hợp miễn tiền án phí nên phải chịu án phí theo giá ngạch, Cụ thể: Ông B p hải chịu án p hí là 20. 000. 000đ + 53. 243. 300đ x 4% =22.129.700đ; bà D p hải c hịu án phí là 20. 000. 000đ + 53. 243. 300đ x 4% =22.129.700đ; anh Th; chị Th; chị Th3; chị Th2 mỗi người phải chịu 113.310.000đ x 5% = 5.665.500đ nhưng do bà D, anh Th; chị Th; chị Th3; chị Th2 tặng c ho phần d i s ản thừa kế trên c ho ông Tô Văn B, nên ô ng B p hải chịu án p hí theo giá ngạc h đố i với mỗ i p hần d i sản được nhận tặng cho. Anh Tô Văn H phải c hịu án p hí theo giá ngạc h phần d i sản được hưởng là 20.000. 000đ + 53. 250.000đ x 4% = 22.130.000đ.

[6] Về chi xem xét phí định thẩm định, đo đạc và giá tài sản: Ông Tô Văn B tự nguyện chịu toàn bộ nên Hội đồng xét xử không xem x ét.

[7] Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố VY tại phiên tòa là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 26; Điều 35; Điều 39; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Các Điều 610, Điều 611, Điều 612, Điều 614, Điều 623, Điều 649, Điều 650, Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức Th, miễn, giảm, Th, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia thừa kế theo pháp luật của ông Tô Văn B.

Chia cho ông Tô Văn B được quyền sử 388,46m2 (trong đó 258m2 đất ở và 130,46m đất trồng cây lâu năm); 04 cây xoan trên đất trị giá 280.000đ; 01 cây bạch đàn trị giá 100.000đ và toàn bộ cây cối lâm lộc trên phần đất được chia, có tổng giá trị tài sản 2.719.600.000đ (Hai tỷ bảy trăm mười chín triệu sáu trăm nghìn đồng). Cụ thể có các chiều cạnh như sau: Cạnh 4 đến cạnh 5 dài 10,84m giáp đường dân sinh; cạnh 3 đến cạnh 4 dài 1,04m và cạnh 2 đến cạnh 3 dài 31,64m giáp đất nH ông Quân; cạnh 1 đến cạnh 2 dài 13,95m giáp rãnh thoát nước; cạnh 1 cạnh 7 dài 10,99m giáp đất nH ông Phái; cạnh 6 đến cạnh 7 dài 3m giáp phần đất chia cho anh H; cạnh 5 cạnh đến cạnh 6 dài 21,58m (có sơ đồ kèm theo).

Chia cho anh Tô Văn H được sử dụng 64,74m2 (trong đó có 42m2 đất ở và 22,74m2 đất trồng cây lâu năm) và 01 cây xoan trên đất trị giá 70.000đ và toàn bộ cây cối lâm lộc trên phần đất được chia có giá trị tài sản là 453.250.000đ (Bốn trăm năm ba triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) có các chiều cạnh cụ thể như sau: Cạnh 5 đến cạnh 8 dài 3m giáp đường dân sinh; cạnh 7 đến cạnh 8 dài 21,58m giáp nhà ông Phái; cạnh 5 đến cạnh 6 dài 21,58m và cạnh 6 cạnh 7 dài 3,0m giáp đất chia cho ông B (có sơ đồ kèm theo).

2. Về án phí: Ông Tô Văn B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo giá ngạch tổng cộng là 66.921.400đ (Sáu mươi sáu triệu chín trăm chín trăm hai mươi mốt nghìn bốn trăm đồng).

Anh Tô Văn H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo giá ngạch là 22.130.000đ (Hai mươi hai triệu một trăm ba mươi nghìn đồng).

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Đ iều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa Thận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân s ự năm 2008 (sửa đổ i, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp chia thừa kế số 01/2023/DS-ST

Số hiệu:01/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:06/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về