Bản án về tranh chấp chia tài sản sau ly hôn số 05/2023/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 05/2023/HNGĐ-PT NGÀY 01/03/2023 VỀ TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN SAU LY HÔN

Ngày 01 tháng 03 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 30/2022/TLPT-HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2022 về việc “ tranh chấp chia tài sản sau ly hôn”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 37/2022/HNGĐ-ST ngày 25/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Phong Điền bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 130/2022/QĐPT- HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Trần Thị M, sinh năn: 1974; Địa chỉ: ấp 2, xã T, huyện Ph, thành phố Cần Thơ

- Người đại diện hợp pháp: Ông Võ Hồ Thế Ph, sinh năm: 1977

2. Bị đơn: ông Trần Thống Nh, sinh năm: 1978; Địa chỉ: ấp A, xã Tr, huyện Ph, thành phố Cần Thơ. Có mặt

- Người đại diện hợp pháp:

Mã Thúy M, sinh năm 1996 Hoặc bà Trần Dương Yến Nh, sinh năm 1996(văn bản ủy quyền ngày 21/02/2023) Có mặt.

4. Người kháng cáo: Bị đơn Trần Thống Nh

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện nguyên đơn bà Trần Thị M có đại diện ông Phương trình bày và yêu cầu:

Ông Trần Thống Nh với bà Trần Thị Mlà vợ chồng và đã ly hôn theo Quyết định số 80/2017/QĐ-HNGĐ nhưng các bên đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản, các bên tự thỏa thuận. Sau khi ly hôn, các bên không tự thỏa thuận được nên bà M khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất.

Bà M cho rằng, tài sản chung của ông bà gồm: phần đất có diện tích 2.405m2, giấy chứng nhận số CS05752 và phẩn đất có diện tích 1.159m2 ,giấy chứng nhận số CS05753. Cả hai phần đất trên do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ cấp ngày 27/3/2020 cho ông Trần Thống Nh và bà Trần Thị M. Sau khi ly hôn, năm 2019 bà M và ông Nh thỏa thuận chuyển nhượng cho bà M một phần đất giá 250.000.000đ và bà M đã trả tiền xong cho ông Nh. Nhưng đến nay ông Nh vẫn chưa tách diện tích trên giấy chứng nhận cho bà M, phần đất này nằm trong tổng diện tích 1.159m2, thửa 665 do ông Nh và bà M đứng tên chung. Vì nguồn gốc đất được mẹ ông Nh tặng cho chung nên bà M chấp nhận phần ít hơn là yêu cầu Tòa án công nhận cho bà M diện tích 359m2 cộng với phần đất bà đã bỏ tiền mua của ông Nh tổng cộng là 1.159m2 bao gồm toàn bộ thửa đất 665. Bà M yêu cầu Tòa án xem xét chia cho bà toàn bộ diện tích đất 1.159m2 đất và cây trồng có trên đất. Bà M đồng ý chia cho ông Nh toàn bộ thửa đất 202 và tài sản có trên đất cho ông Nh.

Đối với đơn phản tố và phản tố bổ sung của ông Nh thì bà M không đồng ý. Riêng tài sản là quán vườn mai, tuy không tranh chấp nhưng theo bà M sau khi ly hôn, tình hình kinh doanh thua lỗ, ế ẩm, nhiều tháng không trả tiền thuê đất nên chủ nhà đã lấy quán (tài sản, vật kiến trúc) trong quán để trừ nợ. Đồng thời, giữa ông Nh với bà M không thỏa thuận phân chia tài sản chung.

* Theo đơn phản tố ngày 07/9/2020, Đơn phản tố bổ sung ngày 10/5/2021 của bị đơn Trần Thống Nh trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa:

Trước đây ông Nh với bà M là vợ chồng và cha mẹ ông Nh có cho đất, vì M là vợ nên xin đứng tên chung và giấy chứng nhận QSDĐ để tên hai vợ chồng có tổng diện tích là 3.978m2 đất. Năm 2017 khi vợ chồng ly hôn, hai bên có thỏa thuận miệng về phân chia tài sản (không lập biên bản) vì khi đó giấy chứng nhận QSDĐ thế chấp vay ngân hàng. Tài sản được thỏa thuận phía bà M nhận là nhà hàng (Vườn Mai), các dây hụi góp chung. Riêng đất của cha mẹ cho sẽ chia cho ông Nh và ông Nh sẽ trả nợ ngân hàng 250.000.000đ và nợ vay bên ngoài 200.000.000đ.

Năm 2019 do phải trả nợ ngân hàng nên ông Nh có thỏa thuận bán đất cho bà M một phần đất ngang 16m, dài hết đất (khoảng 50m), thuộc một phần thửa 665, với mục đích để lại cho con sau này, hai bên có thỏa thuận giấy tay. Nay bà M thấy đất có giá nên muốn sở hữu riêng và còn yêu cầu thêm diện tích 359m2 thì ông Nh không đồng ý. Ông Nh có ý kiến trả lại số tiền cho bà M và bà M phải trả lại phần đất đã bán cho ông vì nguồn gốc đất của cha mẹ ông để lại cho ông Nh không phải tài sản chung. Toàn bộ phần đất sau này sẽ tặng cho 02 con chung.

Ông Nh có yêu cầu phản tố bổ sung như sau: trước đây khoảng năm 2016 ông bà có vay ngân hàng 250.000.000đ và năm 2019 ông Nh có trả ngân hàng 250.000.000đ vốn và tiền lãi nên ông Nh yêu cầu bà M trả lại cho ông Nh số tiền 125.000.000đ; Năm 2014, ông Nh và bà M có vay số vàng 13 chỉ vàng 24K của cô Phạm Tuyết Nưng sau đó ông Nh đã trả hết số nợ này cho nên ông Nh yêu cầu bà M trả lại cho ông Nh ½ số vàng; Riêng hợp đồng chuyển nhượng đất giấy tay giữa ông Nh với bà M, ông Nh yêu cầu hủy hợp đồng và ông Nh đồng ý trả lại bà M số tiền 250.000.000đ. Ông Nh yêu cầu bà M chuyển tên trên giấy chứng nhận QSDĐ đối với tổng diện tích 3.305m2 đất cho cá nhân của ông Nh.

Tại bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 37/2022/HNGĐ-ST ngày 25/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Phong Điền đã quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Trần Thị M - Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Trần Thống Nh - Về tài sản chung được phân chia như sau:

Bà Trần Thị M được quyền sử dụng đất và cây trồng trên diện tích 1.159m2 đất thuộc thửa 665.

Ông Trần Thống Nh được quyền sử dụng đất và tài sản vật kiến trúc, cây trồng trên diện tích 1.935m2 đất (có 262m2 (ONT) thuộc thửa 202.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí thẩm định, định giá, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/8/2022, ông Nh kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn do trước khi ly hôn đã thỏa thuận chia tài sản, bà M đã nhận tài sản tại thời điểm đó rồi.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên nội dung khởi kiện, đề nghị cấp phúc thẩm bác yêu cầu kháng cáo của bị đơn.

- Bị đơn đề nghị xem xét việc trước khi ly hôn vợ chồng đã thỏa thuận chia tài sản nên đề nghị công nhận thửa đất 665 và 202 là tài sản của bị đơn, bị đơn yêu cầu hủy thỏa thuận ngày 02/4/2019, bị đơn đồng ý trả lại cho nguyên đơn 250.000.000đ và lãi suất theo qui định từ 02/4/2019 cho đến nay.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến tại phiên tòa:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn nộp đơn kháng cáo và nộp tạm ứng án phí trong thời gian luật định nên xem xét hợp lệ về mặt hình thức.

Về kháng cáo của bị đơn thấy rằng, cấp sơ thẩm xác định quyền sử dụng thửa đất 665 và 202 là tài sản chung của bà M và ông Nh là có căn cứ, bởi vì được tặng cho chung trong thời kỳ hôn nhân. Ông Nh kháng cáo cho rằng, vợ chồng đã tự thỏa thuận phân chia tài sản trước khi ly hôn nhưng ông Nh không cung cấp được chứng cứ gì chứng minh, trong khi bà M không thừa nhận. Cấp sơ thẩm chia quyền sử dụng đất cho ông Nh nhiều hơn, vị trí tốt hơn là có lợi cho ông Nh. Đề nghị, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Nh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: bị đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên được xem xét và giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật “tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn” và giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án và kháng cáo của bị đơn nhận thấy:

[2.1] Xét kháng cáo của ông Trần Thống Nh về việc cho rằng trước khi vợ chồng ly hôn đã phân chia tài sản là không có cơ sở. Bởi lẽ, ông Nh không cung cấp được chứng cứ gì chứng minh, trong khi bà M không thừa nhận.

[2.2] Xét kháng cáo của ông Trần Thống Nh về việc yêu xác định thửa đất số 605 và 202 là tài sản riêng của ông:

Theo Bản trích đo địa hính số 10/TTTKTNMT ngày 30/3/2022, phần đất tranh chấp gồm: 1.159m2 đất, thửa 665 và 1.935m2 đất, thửa số 202, do ông Trần Thống Nh và bà Trần Thị M cùng đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Về nguồn gốc đất tranh chấp:

Ngày 05/11/2010, bà Nguyễn Thị H là mẹ ông Nh ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho hai vợ chồng ông Nh và bà M được UBND huyện Phong Điền cấp giấy chứng nhận QSDĐ số CH00370 ngày 02/12/2010 có tổng diện tích là 3.635m2 đất.

Ngày 10/02/2020, ông Nh và bà M có đơn đăng ký biến động đất đai, lý do biến động: điều chỉnh hình thể thửa đất, cập nhật hiện trạng đường và lộ giới, chỉnh năm sinh và có nhu cầu cấp giấy chứng nhận mới. Ngày 27/3/2020 ông Nh và bà M đã được Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Cần thơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ số CS05753, thửa 665 diện tích 1.159m2 đất (CLN) và CS05752, thửa 220 có 262m2 (ONT) và 2.143m2 (CLN); Ngày 27/4/2020 ông Nh và bà M ký Hợp đồng chuyển nhượng đất cho ông Lê Doãn Hồng, diện tích là 470m2, thửa 666. Diện tích đất còn lại tại thửa 220 là 262m2 (ONT) và 1.673m2 (CLN).

Tại khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (nay là Điều 33 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014) qui định:

“ Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng 1.Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng …được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung…” Ông Nh và bà M là vợ chồng, trong thời kỳ hôn nhân được mẹ chồng tặng cho chung quyền sử dụng đất nên đây là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông Nh về việc yêu cầu Tòa án công nhận toàn bộ phần đất tranh chấp là của ông.

Về nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng là chia đôi. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm đã xét về công sức đóng góp hình thành tài sản và trên cơ sở tự nguyện của bà M nên đã chia cho ông Nh phần đất có diện tích là nhiều hơn, vị trí đất tốt hơn phần đất mà bà M được chia là phù hợp, là có lợi cho ông Nh. Bởi lẽ:

Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, trên thửa 665 có diện tích đất 1.159m2 loại (CLN) (giá trị quyền sử dụng đất 1.159m2 x120.000d/m2= 139.080.00đ) hiện nay bị đơn sử dụng và có trồng một số loại cây trái có tổng giá trị là 236.215.000đ. Đương sự khai nhận, toàn bộ cây trên đất đều do bị đơn trồng và chăm sóc, nhưng khi chuyển nhượng đất cho nguyên đơn thì các bên không đề cặp đến số cây trồng trên đất. Bà Minh cho rằng khi mua đất có cây, còn ông Nh bán đất là để cho con nên không đề cập đến cây trồng.

Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, trên diện tích đất Thửa 202 có đất 262m2 (ONT) +1.673m2 (CLN) và trên đất căn nhà, nguồn gốc nhà do vợ chồng tạo lập, hiện nay do ông Nh quản lý, sử dụng. (Giá trị 262m2 (ONT) +1.673m2 (CLN) là 262m2 x 550.000đ + 1.673m2 x 120.000đ = 344.860.000đ) Do bị đơn đã nhận giá trị tài sản lớn hơn nhiều so với phần giá trị tài sản nguyên đơn yêu cầu phân chia trong khối tài sản chung, đồng thời bà M không yêu cầu ông Nh giao lại số tiền 250.000.000đ nên cấp sơ thẩm giao toàn bộ giá trị cây trồng trên thửa đất 655 là phù hợp.

[2.3] Đối với yêu cầu hủy thỏa thuận chia tài sản ngày 02/4/2019:

“Tờ thỏa thuận” có nội dung: ông Nh đồng ý cắt một phần đất trong diện tích đất của tôi “mà tôi và Trần Thị M cùng đứng tên” ngang 16m dài 50m và Trần Thị M có trả cho ông Nh số tiền 250.000.000đ và ông Nh có nghĩa vụ cắt tách thửa đất cho Trần Thị M… và không tranh chấp gì trong tài sản trên phần còn lại văn bản được ký vào ngày 02 tháng 4 năm 2019 có trưởng ấp xác nhận. Bà M đã thanh toán đủ tiền cho ông Nh, ông Nh không thực hiện đúng thỏa thuận.

Xét về bản chất, thỏa thuận giữa ông Nh và bà M lập ngày 02/4/2019 là thỏa thuận chia một phần tài sản chung hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Ông Nh đã vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, lẽ ra cần tuyên hủy bỏ thỏa thuận nếu bà M yêu cầu. Tuy nhiên, bà M không yêu cầu hủy thỏa thuận và cũng không đồng ý hủy bỏ nên “Tờ thỏa thuận“ ngày 02/04/2019 có hiệu lực, điều này cũng có lợi cho ông Nh. Bởi ông Nh không phải trả lại cho bà M 250.000.000đ.

[2.4] Xét kháng cáo của ông về yêu cầu hoàn trả về nợ chung:

Bị đơn cho rằng bị đơn đã trả ngân hàng 250.000.000 đồng đây là nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, nợ bà Nưng 1,3 lượng vàng 24K. Nên yêu cầu nguyên đơn trả lại cho bị đơn 125.000.000 đồng tiền vay ngân hàng và trả lại 6,5 chỉ vàng 24K.

Tại biên bản đối chất ngày 09/5/2022, bút lục 184 và tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nh trình bày số tiền 470.00.000đ tiền chuyển nhượng 470m2 đất cho ông Hồng, ông Nh nhận để trả nợ chung gồm nợ vay ngân hàng 250.000.000 đồng và nợ ngoài. Đây là tiền bán tài sản chung, chi trả nợ chung. Phần còn thừa lại sau khi trả nợ chung, ông Nh giữ hết. Do đó, yêu cầu của bị đơn về chia nợ chung, yêu cầu bà M hoàn trả ½ nợ chung là không có căn cứ chấp nhận.

[3]Về án phí:

- Án phí sơ thẩm: Các đương sự phải chịu theo quy định.

- Án phí phúc thẩm: Kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu 300.000đ.

[4] Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 33, Điều 59, 62 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Thống Nh Giữ nguyên quyết định của Bản án số 37/2022/DS-ST ngày 25/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M.

Chia cho bà Trần Thị M được quyền sử dụng thửa đất 665, diện tích 1.159m2 đất CLN, tờ bản đồ số 11, giấy chứng nhận QSDĐ số CS05753 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Cần Thơ cấp ngày 27/3/2020 cho ông Trần Thống Nh và bà Trần Thị M Chia cho ông Trần Thống Nh được quyền sử dụng thửa đất 202, diện tích 1.935m2 đất ( gồm 262m2 đất ONT +1.673m2 đất CLN) thuộc thửa 202, tờ bản đồ số 11, giấy chứng nhận QSDĐ số CS05752 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Cần Thơ cấp ngày 27/3/2020 cho ông Trần Thống Nh và bà Trần Thị M.

Các phần đất nêu trên tọa lạc tại ấp A, xã Tr, huyện Ph, thành phố Cần Thơ. Phần nhà, các tài sản, cây trồng trên đất ông Nh được chia, giao cho ông Nh.

Phần cây trồng trên đất bà M được chia, giao cho bà M.

(Căn cứ Bản trích đo địa chính số 10/TTKTTNMT ngày 30/3/2022 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ để xác định vị trí, kích thước, diện tích đất ông Nh, bà M được chia và tài sản có trên đất được hưởng).

Các đương sự có quyền yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các phần đất nêu trên cho các đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai và chịu các khoản phí, lệ phí có liên quan.

2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Trần Thống Nh về việc:

- Yêu cầu công nhận quyền sử dụng các thửa đất 665 và 202 là tài sản riêng của ông.

- Yêu cầu bà M hoàn trả ½ số nợ đã trả cho Ngân hàng và ½ số nợ đã trả cho bà N.

3. Về Chi phí đo đạc, định giá: Các đương sự tự nguyện chịu, công nhận đã nộp và chi xong.

4.Về án phí:

- Án phí sơ thẩm:

Bà Trần Thị M phải chịu án phí 6.954.000đ, được khấu trừ vào 3.477.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 017579 ngày 18/8/2020 và 300.000đ biên lai số 017941 ngày 10/3/2021; Bà Trần Thị M còn phải nộp thêm 3.177.000đ.

Ông Trần Thống Nh phải chịu án phí đối với giá trị tài sản được nhận 17.243.000đ và phải chịu án phí đối với yêu cầu phản tố không được chấp nhận 7.875.000đ, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 5.500.000đ theo biên lai số 017637 ngày 02/10/2020 và 2.375.000đ theo biên lai số 017941 ngày 11/3/2022 nên ông Trần Thống Nh còn phải nộp tiếp số tiền án phí là 17.243.000đ.

- Án phí phúc thẩm: Ông Trần Thống Nh phải chịu 300.000đ, được khấu trừ vào 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0007468 ngày 29/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phong Điền; Ông Nh đã nộp đủ án phí phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, và Điều 9; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp chia tài sản sau ly hôn số 05/2023/HNGĐ-PT

Số hiệu:05/2023/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về