TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 57/2024/HNGĐ-ST NGÀY 02/02/2024 VỀ TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN SAU KHI LY HÔN
Trong các ngày 22/01/2024; 01/02/2024 và ngày 02/02/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tràn Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 538/2023/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2023 về việc “Tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 443/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Trường V, Sinh năm 1980 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông V: Luật sư Võ Quốc D - Văn phòng luật sư Nguyễn Văn M thuộc Đoàn luật sư tỉnh C (có mặt)
- Bị đơn: Bà Trần Thị T, Sinh năm 1980 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền: Ông Trần Văn N, sinh năm 1995; Địa chỉ: Đường H, khu L, khóm F, phường C, thành phố C, tỉnh Cà Mau (Văn bản ủy quyền ngày 17/8/2023, có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trịnh Thị L, sinh năm 1978 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
2. Ngân hàng TMCP C Địa chỉ: Số A, đường T, Quận H, Hà Nội Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Hoàng K - Phó phòng giao dịch Sông Đ (xin vắng mặt) Địa chỉ: Khóm A, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
3. Bà Ngô Thị T1, sinh năm 1988 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
4. Ông Tô Minh H, sinh năm 1983 (chết) Địa chỉ: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H:
4.1 Bà Đỗ Thị Ê, sinh năm 1955 (xin vắng mặt) Địa chỉ: Khóm D, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
4.2 Bà Nguyễn Thị D1, sinh năm 1981
4.3 Anh Tô Minh A, sinh ngày 15/11/2005 (xin vắng mặt)
4.4 Chị Tô Mỹ A1, sinh ngày 24/12/2012 Người đại diện theo pháp luật của chị A1: Bà Nguyễn Thị D1, sinh năm 1981 (mẹ ruột, có mặt) Cùng địa chỉ: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
5. Bà Nguyễn Kim Đ (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
6. Bà Nguyễn Thị D1, sinh năm 1981 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện theo ủy quyền của bà D1: Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1971; Địa chỉ: Khóm A, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cà Mau (Văn bản ủy quyền ngày 07/12/2023, có mặt)
7. Bà Huỳnh Phụng K1, sinh năm 1978 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm D, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
8. Bà Lê Thúy D2, sinh năm 1993 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
9. Bà Nguyễn Thị Đ1, sinh năm 1983 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm D, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
10. Bà Lâm Thị H1 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
11. Ông Lê Đình H2 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm D, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
12. Bà Phạm Ngọc H3, sinh năm 2001 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
13. Ông Trần Minh T3 (Trần Tuấn K2), sinh năm 1990 (có mặt phiên tòa ngày 22/01/2024, vắng mặt phiên tòa ngày 01, 02/02/2024) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
14. Bà Phan Thị Thanh L1, sinh năm 1988 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
15. Bà Trần Thị N1, sinh năm 1962 (Có mặt phiên tòa ngày 01/02/2024, vắng mặt phiên tòa ngày 22/01/2024 và ngày 02/02/2024) Địa chỉ cư trú: Khóm B, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
16. Ông Nguyễn Trường A2, sinh năm 1975 Người đại diện theo ủy quyền của ông A2: Bà Châu Bích L2, sinh năm 1979 (Văn bản ủy quyền ngày 11/10/2023, xin vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
17. Bà Tô Kim H4, (Tô Thị H5), sinh năm 1971 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
18. Bà Hồ Thị Hồng Á, sinh năm 1968 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.
19. Ông Nguyễn Xuân H6, sinh năm 1977 (xin vắng mặt) Địa chỉ cư trú: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Trường V trình bày:
Ông và bà T, chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn. Do cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc bà T yêu cầu ly hôn và được Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời giải quyết cho ly hôn theo bản án số 507/2022/HNGĐ-ST ngày 27/12/2022. Do ông và bà T không tự thỏa thuận được về tài sản chung, nợ chung, riêng ông yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:
Trong quá trình chung sống vợ chồng có tài sản chung như sau:
Có căn nhà ở, nhà trọ và nhà xưởng và đất ở khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau do bà Trần Thị T đứng tên quyền sử dụng đất ngày 15/9/2014 phần đất có diện tích diện tích 343,4m2 tại thửa số 77 tờ bản đồ số 7 tổng giá trị 2.000.000.000 đồng. Một chiếc ghe biển đánh bắt thủy hải sản theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số CM-91788-TS do bà Trần Thị T đứng tên được C1 cấp ngày 17/8/2017 và toàn bộ ngư lưới cụ đánh bắt có giá trị 1.000.000.000 đồng và thiết bị máy móc gồm 02 máy tiện và 01 máy ép giá trị 50.000.000 đồng. Tại phiên tòa ông V rút yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu chia tài sản chung là nhà ở, nhà trọ, nhà bến sông (nhà xưởng) và đất ông không yêu cầu Tòa án chia. Ông chỉ yêu cầu Tòa án chia tài sản chung là một chiếc ghe biển đánh bắt thủy hải sản theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số CM -91788-TS do bà Trần Thị T đứng tên được C1 cấp ngày 17/8/2017 và toàn bộ ngư lưới cụ đánh bắt có giá trị 1.000.000.000 đồng và thiết bị máy móc gồm 02 máy tiện và 01 máy ép giá trị 50.000.000 đồng, yêu cầu chia đôi.
Về nợ chung:
Nợ của vợ chồng ông Tô Minh H, vợ bà Nguyễn Thị D1 nợ hụi số tiền nợ 1.100.000.000 đồng; nợ bà Trịnh Thị L (Theo đơn khởi kiện ghi Trịnh Thị L3 là do nhằm) số tiền hụi và vay tổng số tiền 363.000.000 đồng và 30 chỉ vàng 24k (tương đương 500.000.000 đồng); nợ bà Ngô Thị T1 số tiền 73.000.000 đồng tiền hụi; nợ bà Nguyễn Kim Đa S tiền 36.000.000 đồng tiền hụi; nợ Ngân hàng TMCP C (Phòng G) số tiền vốn vay 1.100.000.000 đồng (trong quá trình giải quyết vụ án ông và bà T đã tất toán nợ Ngân hàng).
Tại phiên tòa ông V xác định đối với phần đất ruộng tại ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang đây là tài sản riêng của ông do cha ông tặng cho riêng ông cách nay khoảng hơn 5 năm, hiện tại ông đã chuyển nhượng cho người anh của ông là ông Nguyễn Xuân H6, địa chỉ tại: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang khoảng tháng 8/2023 giá chuyển nhượng 150.000.000 đồng. Bà T yêu cầu chia 1/2 giá trị phần đất ruộng ông đồng ý.
Đối với các khoản nợ bà T khai là:
Nợ bà Huỳnh Mộng K3 số tiền 200.000.000 đồng, tiền hụi.
Nợ bà Lê Thúy D2 số tiền 35.000.000 đồng là tiền hụi. Nợ bà Nguyễn Thị Đ1 150.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Lâm Thị H1 số tiền 150.000.000 đồng là tiền hụi Nợ ông Lê Đình H2 số tiền 90.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Phạm Ngọc H3 số tiền 48.000.000 đồng là tiền hụi Nợ ông Trần Tuấn K2, vợ bà Phan Thị Thanh L1 số tiền 136.000.000 đồng là bao gồm tiền hụi 86.000.000 đồng và tiền mua lưới, dụng cụ đánh bắt thủy sản 50.000.000 đồng (ông đồng ý trả 1/2 bằng 25.000.000 đồng).
Nợ bà Trần Thị N1 số tiền mượn 150.000.000 đồng để trang trải chi phí và đầu tư ghe đánh bắt thủy sản.
Nợ ông Nguyễn Trường A2 số tiền 300.000.000 đồng tiền hụi Nợ bà Tô Kim H4 số tiền 80.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Hồ Thị Hồng Á số tiền 31.000.000 đồng là tiền hụi.
Đây là nợ riêng của bà T, ông không biết khoản nợ này, ông không có trách nhiệm cùng bà T trả các khoản nợ này.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:
Về tài sản chung: Phần đất ruộng tại ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang, phần đất này ông V đứng tên quyền sử dụng đất, hiện tại ông V đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Xuân H6 thống nhất giá trị đất 150.000.000 đồng, thiết bị máy móc gồm 02 máy tiện và 01 máy ép giá trị 50.000.000 đồng.
Tài sản riêng của bà T: Một chiếc ghe biển đánh bắt thủy hải sản theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số CM-91788-TS do bà Trần Thị T đứng tên được C1 cấp ngày 17/8/2017 và ngư lưới cụ đánh bắt cá giá trị 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng), hiện tại do bà T quản lý sử dụng, đang ra biển đánh bắt.
Nợ chung: Ngoài các chủ nợ ông V đã trình bày là đúng, thì vợ chồng ông V còn có các khoảng nợ sau:
Nợ bà Huỳnh Mộng K3 số tiền 200.000.000 đồng, tiền hụi.
Nợ bà Lê Thúy D2 số tiền 35.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Nguyễn Thị Đ1 150.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Lâm Thị H1 số tiền 150.000.000 đồng là tiền hụi Nợ ông Lê Đình H2 số tiền 90.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Phạm Ngọc H3 số tiền 48.000.000 đồng là tiền hụi Nợ ông Trần Tuấn K2, vợ bà Phan Thị Thanh L1 số tiền 136.000.000 đồng là bao gồm tiền hụi và tiền mua lưới, dụng cụ đánh bắt thủy sản.
Nợ bà Trần Thị N1 số tiền mượn 150.000.000 đồng mượn để trang trải chi phí và đầu tư ghe đánh bắt thủy sản.
Nợ ông Nguyễn Trường A2 số tiền 300.000.000 đồng tiền hụi Nợ bà Tô Kim H4 số tiền 80.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Hồ Thị Hồng Á số tiền 31.000.000 đồng là tiền hụi.
Bà T yêu cầu Tòa án giải quyết: Yêu cầu được nhận chiếc ghe đánh bắt thủy sản và toàn bộ ngư lưới cụ đánh bắt thủy hải sản do bà T đứng tên đồng ý giao lại cho ông Vũ 3 giá trị tương đương 300.000.000 đồng; yêu cầu chia đôi giá trị 50% phần đất ruộng tại ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang bằng 75.000.000 đồng và 50% giá trị thiết bị máy móc gồm 02 máy tiện và 01 máy ép bằng 25.000.000 đồng.
Nợ chung: Yêu cầu Tòa án giải quyết chia đôi mỗi người có trách nhiệm trả 1/2.
Bà Trịnh Thị L trình bày: Ông Nguyễn Trường V và bà Trần Thị T có thiếu bà số tiền hụi, tiền mượn và vàng là tổng 363.000.000 đồng và 30 chỉ vàng 24k. Yêu cầu ông Nguyễn Trường V, bà Trần Thị T có trách nhiệm trả khoản nợ thiếu này.
Bà Ngô Thị T1 trình bày: Năm 2018 vợ chồng ông V, bà T làm chủ hụi, bà có tham gia hụi đóng đến mãn ông V, bà T còn nợ bà 73.000.000 đồng, bà yêu cầu bà T, ông V trả cho bà 73.000.000 đồng.
Bà Nguyễn Thị D1 trình bày: Năm 2019 vợ chồng ông V, bà T nhiều lần vay tiền của bà và nợ tiền hụi, tổng số tiền nợ là 1.100.000.000 đồng, đến ngày 16/4/2023 ông V, bà T có làm biên nhận nợ. Bà yêu cầu vợ chồng ông V, bà T phải có trách nhiệm trả số tiền 1.100.000.000 đồng.
Bà Huỳnh Phụng K1 trình bày: Năm 2017 bà tham gia dây hụi do bà T làm chủ hụi loại hụi 5.000.000 đồng, hiện tại hụi đã mãn, bà T còn thiếu 200.000.000 đồng, bà tham gia hụi thì ông V có biết. Bà yêu cầu ông V và bà T có trách nhiệm trả cho bà số tiền thiếu 200.000.000 đồng.
Bà Lê Thủy D2 trình bày: Bà có tham gia hụi do bà T làm chủ hụi, thời gian tham gia hụi đã lâu không nhớ chính xác, bà T thiếu 48.000.000 đồng, bà T trả được 10.000.000 đồng, ông V đã trả 3.000.000 đồng, hiện tại còn thiếu 35.000.000 đồng (không có biên nhận), yêu cầu bà T, ông V trả 35.000.000 đồng.
Bà Nguyễn Thị Đ1 trình bày: Bà có tham gia hụi do bà T làm chủ hụi loại hụi 5 triệu đồng, 2 triệu đồng (hụi năm 2017) hiện tại đã mãn, bà T còn thiếu 150.000.000 đồng, nay yêu cầu bà T, ông V trả tiền thiếu 150.000.000 đồng.
Bà Phạm Ngọc H3 trình bày: Bà có tham gia hụi do bà T làm chủ hụi loại hụi 1.000.000 đồng năm 2017 hiện tại hụi đã mãn, còn thiếu 52.000.000 đồng, ông V đã trả 4.000.000 đồng, ông V bà T còn thiếu 48.000.000 đồng. Yêu cầu ông V bà T trả số tiền thiếu 48.000.000 đồng.
Bà Phan Thị Thanh L1 trình bày: Bà và ông Trần Tuấn K2 (Trần Minh T3) là vợ chồng, vợ chồng ông V có thiếu tiền hụi của bà số tiền 86.000.000 đồng, tiền mua lưới 50.000.000 đồng (thiếu năm 2022), tổng số tiền 136.000.000 đồng. Yêu cầu vợ chồng ông V, bà T trả tiền thiếu 136.000.000 đồng. Việc thiếu tiền không có biên nhận.
Ông Trần Minh T3 tại phiên tòa trình bày: Ông thống nhất lời trình bà của bà L1 là vợ ông, ông đồng ý để bà L1 khởi kiện ông V, bà T trả tiền thiếu.
Bà Trần Thị N1 trình bày: Trước đây giữa bà với bà T có làm ăn mua bán mực với nhau bà có đưa cho bà T nhiều lần và có vô hụi dùm bà T bà T hốt hụi, đến nay tổng số tiền thiếu 150.000.000 đồng. Yêu cầu bà T và ông V phải có trách nhiệm trả số tiền 150.000.000 đồng.
Bà Hồ Thị Hồng Á trình bày: Năm 2017 bà Trần Thị T làm chủ hụi, mở hụi 3.000.000 đồng, hụi gồm 34 chưng, bà tham gia 01 chưng, đóng dược 31 kỳ, bà T đình hụi, số tiền bà T còn thiếu 63.000.000 đồng, ông V và bà T đã trả được 32.000.000 đồng còn lại 31.000.000 đồng, nay bà yêu cầu ông V, bà T trả cho bà 31.000.000 đồng.
Bà Tô K4 (T4) H4 trình bày: Năm 2017 bà Trần Thị T làm chủ hụi, mở hụi 3.000.000 đồng, hụi có 33 chưng, bà Tham gia 01 chưng, đóng được 21 kỳ, hụi 1.000.000 đồng bà không nhớ, sau đó bà T đình hụi, hai bên thanh toán bà T còn nợ tiền hụi 67.000.000 đồng.
Bà T, ông V có mượn tiền 15.000.000 đồng, tổng số tiền bà T, ông Vũ t bà số tiền 82.000.000 đồng, yêu cầu ông V, bà T trả số tiền 82.000.000 đồng.
Đại diện Ngân hàng TMCP C: Vợ chồng ông V, bà T vay tiền Ngân hàng tạm tính đến ngày khởi kiện số tiền còn thiếu 1.052.081.701 đồng và có thể chấp tài sản là quyền sử dụng đất và ghe đánh bắt thủy sản. Trong quá trình giải quyết vụ án bà T, ông V đã tất toán nợ Ngân hàng, Ngân hàng rút lại toàn bộ yêu cầu khởi kiện và xin xét xử vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Trường A2 là bà Châu Bích L2 trình bày: Ông A2 là chủ hụi bà T tham gia hụi như sau: Một chưng hụi 3 triệu đồng, 02 chưng hụi 5 triệu đồng và 03 chưng hụi 01 triệu đồng, hiện tại các chưng hụi thì bà T đã hốt xong, bà T đóng hụi đầy đủ, đến thời điểm hiện tại bà T còn thiếu chưng hụi 3 triệu đồng số tiền phải đóng 42.000.000 đồng, 02 chưng hụi 5 triệu đồng số tiền cần phải đóng 185.000.000 đồng và 03 chưng hụi 1 triệu số tiền phải đóng 48.000.000 đồng. Như vậy tổng số tiền bà T cần phải đóng hụi là 275.000.000 đồng, bà T không có vi phạm nghĩa vụ đóng hụi, trong vụ án này ông A2 không yêu cầu tòa án giải quyết, nếu sau này các bên có tranh chấp thì ông A2 sẽ khởi kiện thành vụ án khác. Do đó, bà đề nghị Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng vắng mặt bà và đề nghị Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm.
Ông Nguyễn Xuân H6 trình bày: Ông có chuyển nhượng của ông Nguyễn Trường V phần đất tại ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang giá chuyển nhượng 150.000.000 đồng, ông đã trả tiền chuyển nhượng đầy đủ cho ông V, ông không có yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề gì trong vụ án này, ông đề nghị Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng và xét xử vắng mặt do bận đi làm.
Tranh luận tại phiên tòa:
Luật sư Võ Quốc D tranh luận: Luật sư đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Luật sư D cho rằng chiếc tàu đánh bắt thủy hải sản do bà T đứng tên quyền sở hữu là tài sản chung của ông V và bà T, nguồn gốc tài sản là chuyển nhượng là từ cha vợ ông V là ông Q, bà T cho rằng ông Q tặng cho nhưng không đưa ra được tài liệu chứng cứ chứng minh cho trình bày của mình.
Đối với khoảng nợ chung ông V và bà T thống nhất, mỗi người có trách nhiệm trả 1/2 khoảng nợ này như nợ của bà D1 1,1 tỷ đồng, nợ của bà L 500 triệu đồng (Tương đương 363 triệu đồng và 30 chỉ vàng 24k), nợ của bà T1 73 triệu đồng, nợ của bà Đ 36 triệu đồng, nợ của bà L2 50 triệu đồng. Đối với khoản nợ Ngân hàng TMCP C (Phòng G) khoản vay 1,1 tỷ đồng, trong quá trình giải quyết vụ án thì ông V và bà T đã tất toán xong với Ngân hàng.
Đối với các khoản nợ do bị đơn khai, ông V không thừa nhận đây là nợ chung và không đồng ý chịu trách nhiệm trả 1/2 cho các chủ nợ.
Đối với tài sản chung là máy móc cơ khí ông V đồng ý giao lại cho bà T giá trị 1/2 bằng 25 triệu đồng, ông Vũ nhận máy móc cơ khí. Đồng ý giao 1/2 giá trị phần đất tại ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang cho bà T 75 triệu đồng.
Đối với chiếc tàu đánh bắt thủy sản và toàn bộ ngư lưới cụ đánh bắt thủy hải sản do bà T đứng tên ông V yêu cầu được nhận và đồng ý trả toàn bộ khoản nợ mà ông V và bà T thống nhất.
Ông Nguyễn Trường V thống nhất trình bày của luật sư không có ý kiến tranh luận.
Đại diện theo ủy quyền của bà T, Ông N trình bày: Ông N xác định tàu đánh bắt thủy hải sản do bà T đứng tên theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá CM-91788-TS là tài sản riêng của bà T do cha mẹ bà T tặng cho. Việc ông Q và bà T lập hợp đồng chuyển nhượng ngày 15/8/2017 giá chuyển nhượng 1,5 tỷ đồng để mục đích vợ chồng bà T vay tiền Ngân hàng nhiều nhất có thể, vợ chồng bà T không có đưa cho ông Quân số tiền 1,5 tỷ đồng. Do đó bà T không đồng ý chia cho ông Vũ 1/2 giá trị chiếc tàu, bà T đồng ý chia cho ông V bằng 30% giá trị tài bằng số tiền 300 triệu đồng.
Đối với máy móc của xưởng đồng ý giao lại cho ông V, bà T yêu cầu được nhận 1/2 giá trị bằng 25 triệu đồng. Yêu cầu nhận 1/2 giá trị phần đất tại ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang bằng 75 triệu đồng.
Gia đình bà T có truyền thống làm tàu biển và đang nuôi con chung của bà T và ông V, chiếc tàu đánh bắt thủy hải sản là nguồn thu nhập duy nhất để bà T nuôi sống và nuôi con chung của ông V và bà T, yêu cầu được nhận tàu đánh bắt thủy hải sản do bà T đứng tên theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá CM-91788-TS.
Đối với các khoản nợ chung yêu cầu ông V phải có trách nhiệm chịu V2 trả cho các chủ nợ. Đối với khoản nợ Ngân hàng TMCP C (Phòng G) khoảng vay 1,1 tỷ đồng, trong quá trình giải quyết vụ án thì ông V và bà T đã tất toán xong với Ngân hàng.
Người đại diện theo ủy quyền của bà D1 là ông Nguyễn Văn T2 trình bày: Tại phiên tòa và quá trình giải quyết vụ án bà T và ông V thừa nhận có thiếu bà D1 1,1 tỷ đồng, do đó yêu cầu Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu độc lập của bà D1 buộc ông V và bà T mỗi người có trách nhiệm trả cho bà D1 bằng 1/2.
Bà Trịnh Thị L, bà Ngô Thị T1, bà Lê Thúy D2, bà Nguyễn Thị Đ1, bà Phạm Ngọc H3, bà Phan Thị Thanh L1, bà Trần Thị N1, bà Tô Kim H4 không trình bày tranh luận.
Ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát như sau:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Trường V đối với bà Trần Thị T về việc yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Trần Thị T đối với ông Nguyễn Trường V về việc yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn.
Giao cho ông Nguyễn Trường V được quyền sở hữu 02 máy tiện, 01 máy ép.
Giao cho bà Trần Thị T được quyền sở hữu tàu đánh bắt thủy hải sản theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số CM-91788-TS ngày 17/8/2017 do bà Trần Thị T đứng tên quyền sở hữu và toàn bộ ngư lưới cụ đánh bắt thủy hải sản.
Buộc bà Trần Thị T giao lại cho ông Nguyễn Trường V số tiền chênh lệch sau khi phân chia tài sản chung là 400.000.000 đồng.
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Trường V yêu cầu chia tài sản chung là phần đất tại thửa số 77 tờ bản đồ số 7, diện tích 343,4m2 do bà Trần Thị T đứng tên quyền sử dụng đất ngày 18/9/2014, đất tọa lạc tại khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau; trên đất có nhà ở, nhà trọ và nhà bến sông (nhà xưởng).
Đình chỉ yêu cầu độc lập của Ngân hàng Thương Mại cổ phần C về việc yêu cầu ông Nguyễn Trường V và bà Trần Thị T trả tổng số tiền tạm tính đến ngày 11/8/2023 la 1.052.081.701 đồng (nợ gốc 1.010.377.553 đồng, lãi 41.704.148 đồng) và tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất trong các hợp đồng cho vay cho đến khi trả hết nợ.
Đình chỉ yêu cầu độc lập của bà Huỳnh Phụng K1 về việc yêu cầu ông Nguyễn Trường V, bà Trần Thị T trả số tiền 200.000.000 đồng.
Đình chỉ yêu cầu độc lập của bà Hồ Thị Hồng Á về việc yêu cầu ông Nguyễn Trường V, bà Trần Thị T trả số tiền 31.000.000 đồng.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị D1, bà Trình Thị L4, bà Ngô Thị T1 và một phần yêu cầu độc lập của bà Phan Thị Thanh L1 đối với ông Nguyễn Trường V, bà Trần Thị T về trách nhiệm trả nợ.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của Trần Thị N1, bà Nguyễn Thị Đ1 và và một phần yêu cầu độc lập của bà Phan Thị Thanh L1, bà Phạm Ngọc H3, bà Tô Thị H5, bà Lê Thúy D2 đối với bà Trần Thị T về trách nhiệm trả nợ.
Không chấp nhận yêu cầu độc lập của Trần Thị N1, bà Nguyễn Thị Đ1 và một phần yêu cầu độc lập của bà Phan Thị Thanh L1, bà Phạm Ngọc H3, bà Tô Thị H5, bà Lê Thúy D2 đối với ông Nguyễn Trường V có trách nhiệm cùng bà Trần Thị T trả nợ.
Buộc ông Nguyễn Trường V, bà Trần Thị T mỗi người phải trả cho bà Nguyễn Thị D1 550.000.000 đồng, trả cho bà Trịnh Thị L 181.500.000 đồng và 15 chỉ vàng 24k, trả cho bà Ngô Thị T1 36.500.000 đồng, trả cho bà Phan Thị Thanh L1 25.000.000 đồng.
Buộc bà Trần Thị T trả cho bà Lê Thúy D2 35.000.000 đồng, trả cho bà Nguyễn Thị Đ1 150.000.000 đồng, trả cho bà Phan Thị Thanh L1 86.000.000 đồng, trả cho bà Tô Thị H5 (Tô Kim H4) 82.000.000 đồng, trả cho bà Phạm Ngọc H3 48.000.000 đồng, trả cho bà Trần Thị N1 150.000.000 đồng.
Chi phí tố tụng, án phí sơ thẩm các đương sự phải chịu theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng lại phiên lòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng:
[1] Xét về thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Ông Nguyễn Trường V khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung sau khi ly hôn với bà Trần Thị T, bà T có nơi cư trú tại huyện T, do đó xác định mối quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự về việc “Tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Vắng mặt đương sự: Bà Đỗ Thị Ê, anh Tô Minh A, ông Trần Hoàng K đại diện theo ủy quyền Ngân hàng TMCP C, ông Nguyễn Xuân H6 xin xét xử vắng mặt; bà Nguyễn Kim Đ, bà Huỳnh Phụng K1, bà Lâm Thị H1, ông Lê Đình H2, bà Hồ Thị Hồng Á đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự trên là đúng quy định.
- Về nội dung:
[3] Ông Nguyễn Trường V và bà Trần Thị T được Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử chấp nhận cho ly hôn tại bản án số 507/2022/HNGĐ-ST ngày 27/12/2022, về tài sản chung bà T xác định tự thỏa thuận. Về nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, sau khi ly hôn hai bên không thỏa thuận được về tài sản chung, nợ nên ông V khởi kiện yêu cầu chia tài sản, nợ chung sau khi ly hôn.
[4] Xét về yêu cầu khởi kiện của ông V: Ông V cho rằng trong thời gian chung sống vợ chồng có tài sản chung như sau:
Đất tại thửa số 77 tờ bản đồ số 7, diện tích 343,4m2 do bà Trần Thị T đứng tên quyền sử dụng đất ngày 18/9/2014, đất tọa lạc tại khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau; Trên đất có nhà ở, nhà trọ và nhà bến sông (nhà Xưởng); Tàu đánh bắt thủy hải sản theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số CM - 91788-TS ngày 17/8/2017 do bà Trần Thị T đứng tên quyền sở hữu. Theo ông xác định phần nhà và đất này có tổng giá trị 2.000.000.000 đồng, giá trị 02 máy tiện và 01 máy ép giá trị 50.000.000 đồng và giá trị tàu đánh bắt thủy hải sản và toàn bộ ngư lưới đánh bắt thủy hải sản 1.000.000.000 đồng, tại phiên tòa ông V rút yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu chia tài sản chung là nhà ở, nhà trọ, nhà bến sông (nhà Xưởng) và đất ông không yêu cầu Tòa án chia, do đó Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu này của ông V, ông V chỉ yêu cầu chia chiếc tàu đánh bắt thủy sản theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số CM - 91788-TS ngày 17/8/2017 do bà Trần Thị T đứng tên quyền sở hữu và toàn bộ ngư lưới đánh bắt thủy hải sản mỗi người 1/2. Đối với tài sản là 02 máy tiện, 01 máy ép giá trị 50.000.000 đồng, ông đồng ý nhận và giao lại 1/2 giá trị cho bà T bằng 25.000.000 đồng.
Đối phần đất tại ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang, tại phiên tòa ông đồng ý chia cho bà T 1/2 giá trị bằng 75.000.000 đồng.
Về nợ chung:
Nợ của vợ chồng ông Tô Minh H, bà Nguyễn Thị D1 nợ hụi số tiền nợ 1.100.000.000 đồng; nợ bà Trịnh Thị L số tiền hụi và vay tổng số tiền 363.000.000 đồng và 30 chỉ vàng 24k; nợ bà Ngô Thị T1 số tiền 73.000.000 đồng tiền hụi; nợ bà Nguyễn Kim Đa s tiền 36.000.000 đồng tiền hụi; nợ Ngân hàng TMCP C (Phòng G) số tiền vốn vay 1.100.000.000 đồng, nợ bà Phan Thị Thanh L1 tiền mua dụng cụ lưới 50.000.000 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án ông và bà T đã tất toán nợ với Ngân hàng. Đối với các khoảng nợ chung ông yêu cầu chia đồi, mỗi người có trách nhiệm trả 1/2.
Trường hợp ông nhận tàu đánh bắt thủy sản theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số CM - 91788-TS ngày 17/8/2017 do bà Trần Thị T đứng tên quyền sở hữu và toàn bộ ngư lưới đánh bắt thủy hải sản thì ông đồng ý nhận trách nhiệm trả toàn bộ các khoảng nợ chung giữa ông và bà T thống nhất là nợ bà D1 1,1 tỷ đồng, nợ của bà L 363 triệu đồng và 30 chỉ vàng 24k, nợ của bà T1 73 triệu đồng, nợ của bà Đ 36 triệu đồng, nợ của bà L1 50 triệu đồng.
Đối với các khoản nợ hà T khai:
Nợ bà Huỳnh Phụng K1 số tiền 200.000.000 đồng, tiền hụi.
Nợ bà Lê Thúy D2 số tiền 35.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Nguyễn Thị Đ1 150.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Lâm Thị H1 số tiền 150.000.000 đồng là tiền hụi Nợ ông Lê Đình H2 số tiền 90.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Phạm Ngọc H3 số tiền 48.000.000 đồng là tiền hụi Nợ ông Trần Tuấn K2 (vợ Phan Thị Thanh L1) số tiền 86.000.000 đồng tiền hụi. Nợ bà Trần Thị N1 số tiền mượn 150.000.000 đồng để trang trải chi phí và đầu tư ghe đánh bắt thủy sản.
Nợ ông Nguyễn Trường A2 số tiền 300.000.000 đồng tiền hụi Nợ bà Tô Kim H4 số tiền 82.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Hồ Thị Hồng Á số tiền 31.000.000 đồng là tiền hụi.
Ông V xác định không có, không đồng ý cùng bà T trả khoản nợ trên, bà T xác định với các chủ nợ thì đó là nợ riêng của bà T.
[5] Bà T xác định vợ chồng chỉ có tài sản chung là phần đất tại ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang giá trị 150.000.000 đồng (ông V đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Xuân H6) yêu cầu chia 1/2 giá trị bằng 75.000.000 đồng và 02 máy tiện, 01 máy ép giá trị 50.000.000 đồng yêu cầu chia 1/2 giá trị bằng 25.000.000 đồng, đồng ý giao lại cho ông V 02 máy tiện, 01 máy ép.
Đối với tàu đánh bắt thủy hải sản theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số CM - 91788-TS ngày 17/8/2017 do bà Trần Thị T đứng tên quyền sở hữu đây và toàn bộ ngư lưới đánh bắt thủy hải sản là tài sản riêng của bà được cha mẹ tặng cho, tại phiên tòa bà T đồng ý chia cho ông Vũ 3 giá trị tương đương 300.000.000 đồng (tổng giá trị 1.000.000.000 đồng).
Đối với các khoảng nợ chung ông V khai là đúng, yêu cầu chia đôi.
Ngoài ra vợ chồng còn các khoản nợ chung:
Nợ bà Huỳnh Phụng K1 số tiền 200.000.000 đồng là tiền hụi.
Nợ bà Lê Thúy D2 số tiền 35.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Nguyễn Thị Đ1 150.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Lâm Thị H1 số tiền 150.000.000 đồng là tiền hụi Nợ ông Lê Đình H2 số tiền 90.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Phạm Ngọc H3 số tiền 48.000.000 đồng là tiền hụi Nợ ông Trần Tuấn K2 (Trần Minh T3) (vợ Phan Thị Thanh L1) số tiền 86.000.000 đồng tiền hụi.
Nợ bà Trần Thị N1 số tiền mượn 150.000.000 đồng tiền mượn để trang trải chi phí và đầu tư ghe đánh bắt thủy sản.
Nợ ông Nguyễn Trường A2 số tiền 300.000.000 đồng tiền hụi Nợ bà Tô Kim H4 số tiền 82.000.000 đồng là tiền hụi Nợ bà Hồ Thị Hồng Á số tiền 31.000.000 đồng là tiền hụi.
Bà yêu cầu ông V phải có trách nhiệm trả 1/2 các khoản nợ này.
[6] Hội đồng xét xử thấy rằng: Về tài sản chung ông V và bà T thống nhất đồng ý chia đôi:
[6.1] Phần đất tại ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang giá trị 150.000.000 đồng và 02 máy tiện, 01 máy ép giá trị 50.000.000 đồng, mỗi người được chia 1/2.
[6.2] Riêng đối với T5 đánh bắt thủy hải sản theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số CM - 91788-TS ngày 17/8/2017 do bà Trần Thị T đứng tên quyền sở hữu. Theo ông V thì cho rằng vợ chồng chuyển nhượng của cha vợ ông Trần Minh Q1, giá trị chuyển nhượng 1.500.000.000 đồng, bà T thì cho rằng vợ chồng không có chuyển nhượng của ông Q1 giá 1.500.000.000 đồng mà cha, mẹ ruột của bà tặng cho riêng bà, việc lập hợp đồng là để mục đích vay tiền Ngân hàng số tiền nhiều nhất có thể.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Ngày 15/8/2017 giữa bà Trần Thị T và ông Trần Minh Q1 có xác lập hợp đồng mua bán tàu cá số đăng ký CM-91788-TS giá trị chuyển nhượng là 1.500.000.000 đồng, bà T cho rằng ông Q1 tặng cho nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình.
Đối với tài sản là chiếc tàu đánh bắt thủy hải sản số đăng ký CM-91788-TS và toàn bộ ngư lưới đánh bắt thủy hải sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng ông V, bà T cùng nhau thế chấp Ngân hàng để vay tài tiền có vốn làm ăn, bà T cho rằng tài sản riêng nhưng không đưa ra được căn cứ chứng minh. Do đó xác định tàu đánh bắt thủy hải sản theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số CM - 91788-TS ngày 17/8/2017 do bà Trần Thị T đứng tên quyền sở hữu và toàn bộ ngư lưới đánh bắt thủy hải sản là tài sản chung của vợ chồng bà T ông V. Do đó yêu cầu của anh V yêu cầu chia là có căn cứ.
[7] Đối với các khoản nợ chung giữa ông V và bà T thống nhất.
Ngân hàng TMCP C (Phòng G), trong quá trình giải quyết vụ án vợ chồng bà T đã tất toán Ngân hàng, Ngân hàng đã rút đơn yêu cầu độc lập. Do đó Hội đồng xét xử đình chỉ đối với yêu cầu của Ngân hàng TMCP C đối với ông V và bà T.
Đối khoảng nợ thiếu bà Nguyễn Kim Đ, bà Đ không có yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, trường hợp các đương sự nếu có tranh chấp có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.
[8] Đối với các khoản nợ ông V, bà T chưa thống nhất.
[8.1] Xét các khoản nợ bà T khai là nợ chung: Nợ của bà Lâm Thị H1 nợ 150.000.000 đồng, ông Lê Đình H2 90.000.000 đồng, ông Nguyễn Trường A2 theo bà T xác định 300.000.000 đồng (đại diện theo ủy quyền ông A2 thì xác định 275.000.000 đồng) do bà H1, ông H2, ông A2 không có yêu cầu độc lập, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, trường hợp sau này các đương sự có tranh chấp có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.
[8.2] Đối với khoảng nợ bà Huỳnh Phụng K1 (nợ 200.000.000 đồng), bà Hồ Thị Hồng Á (31.000.000 đồng) các đương sự có đơn yêu cầu độc lập đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên Tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt, do đó Hội đồng xét xử đình chỉ đối với các yêu cầu của bà K1, bà Á. Trường hợp sau này các đương sự có tranh chấp có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.
[8.3] Xét yêu cầu độc lập của bà Đ1, bà Đ1 yêu cầu ông V, bà T trả khoảng tiền hụi thiếu 150.000.000 đồng, theo bà Đ1 khoản tiền là của dây hụi năm 2017 bà T mở hụi 5.000.000 đồng và 1.000.000 đồng, thấy rằng khoảng nợ này không được ông V thừa nhận, bà Đ1 không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh bà tham gia hụi năm 2017 do bà T làm chủ hụi, đến khi Tòa án thụ lý yêu cầu chia tài sản chung giữa ông V và bà Đ1 thì giữa bà Đ1 và bà T mới thiết lập giấy xác nhận nợ ngày 19/9/2023. Do bà T nhận nợ của bà Đ1, không có căn cứ xác định là nợ chung giữa bà T và ông V, ông V cho rằng đây không phải là nợ chung là có căn cứ, chỉ buộc bà T phải có trách nhiệm trả cho bà Đ1 khoảng tiền 150.000.000 đồng.
[8.4] Xét yêu cầu của bà Phan Thị Thanh L1, bà L1 yêu cầu ông V, bà T trả tiền hụi 86.000.000 đồng, tiền mua lưới đánh bắt thủy sản là 50.000.000 đồng, tổng số tiền 136.000.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy rằng đối với khoảng tiền mua lưới 50.000.000 đồng bà T, ông V thừa nhận nợ chung do đó bà L1 yêu cầu ông V, bà T trả khoảng nợ này là có căn cứ, buộc bà T và ông V mỗi người có trách nhiệm trả 1/2 cho bà L1 đúng quy định. Đối với khoảng tiền 86.000.000 đồng bà L1 không cung cấp được tài liệu chứng cứ việc bà T có tham gia hụi và hốt hụi, ông V không thừa nhận có việc bà T tham gia hụi và không đồng ý trả khoản nợ này. Do bà T là người nhận nợ bà L1, do đó không buộc ông V cùng bà T có trách nhiệm trả khoảng nợ này là có căn cứ, chỉ buộc bà T trả cho bà L1 số tiền bà T thừa nhận thiếu 86.000.000 đồng.
[8.5] Xét yêu cầu độc lập của bà Tô Thị H5, bà H5 yêu cầu ông V, bà T trả tiền hụi 67.000.000 đồng và tiền mượn 15.000.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy rằng các khoản nợ do bà T tự khai, ông V không thừa nhận, bà H5 không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh bà Tham gia hụi do bà T mở năm 2017. Đối khoảng tiền 15.000.000 đồng bà cho rằng cho ông V, bà T mượn cũng không cung cấp được tài liệu chứng cứ việc mượn này. Do bà T là người khai, không được ông V thừa nhận, bà T không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh là nợ chung do đó không có căn cứ buộc ông V cùng bà T trả khoản nợ này. Do bà T là người nhận nợ, buộc bà T trả cho bà H5 82.000.000 đồng.
[8.6] Xét yêu cầu độc lập của bà Phạm Ngọc H3, bà H3 yêu cầu ông V, bà T trả số tiền thiếu 48.000.000 đồng, bà xác định đây là dây hụi bà T mở 2017, sau khi đình hụi thì bà T còn thiếu bà 52.000.000 đồng và ông V đã trả 4.000.000 đồng, còn lại 48.000.000 đồng, đối với khoản tiền này không được ông V thừa nhận, bà H3 cũng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh là bà có tham gia dây hụi 1.000.000 đồng do bà T làm chủ hụi mà chỉ có thừa nhận của bà và bà T. Do đó không buộc ông V cùng bà T có trách nhiệm trả cho bà 48.000.000 đồng. Do bà T là người nhận nợ của bà nên buộc bà T trả cho bà H3 48.000.000 đồng.
[8.7] Xét yêu cầu độc lập của chị Lê Thúy D2, chị D2 yêu cầu ông V, bà T trả tiền hụi thiếu 35.000.000 đồng, bà D2 xác định đây là khoảng nợ hụi năm 2017, hụi 1.000.000 đồng đối với khoản tiền này không được ông V thừa nhận, chị D2 cũng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh là chị có tham gia dây hụi 1.000.000 đồng do bà T làm chủ hụi mà chỉ có thừa nhận của chị và bà T. Do đó không buộc ông V cùng bà T có trách nhiệm trả cho chị 35.000.000 đồng. Do bà T là người nhận nợ của chị D2 nên buộc bà T trả cho chị D2 35.000.000 đồng.
[8.8] Xét yêu cầu độc lập của bà N1, bà N1 yêu cầu ông V, bà T trả tiền thiếu 150.000.000 đồng, bà N1 xác định đây là khoảng nợ tiền mượn và tiền hụi mượn, đối với khoản tiền này không được ông V thừa nhận, bà N1 cũng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh việc thiếu tiền ông V biết. Mặt khác tại phiên tòa bà T và bà N1 trình bày mâu thuẫn với nhau về các khoảng tiền này có lúc tiền mượn, tiền hụi có lúc mượn vàng bù vào tiền hụi. Do ông V không thừa nhận và không đồng ý trả, nên không buộc ông V cùng bà T có trách nhiệm trả cho bà N1 150.000.000 đồng. Do bà T là người nhận nợ của bà N1 nên buộc bà T trả cho bà N1 150.000.000 đồng.
[9] Chia tài sản chung: Xét yêu cầu của ông V yêu cầu nhận tàu đánh bắt thủy hải sản theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số CM - 91788-TS ngày 17/8/2017 do bà Trần Thị T đứng tên quyền sở hữu và toàn bộ ngư lưới đánh bắt thủy hải sản ông đồng ý nhận toàn bộ trách nhiệm trả các khoảng nợ chung ông V và bà T thống nhất, bà T không đồng ý bà T yêu cầu nhận tàu và toàn bộ ngư lưới đánh bắt thủy hải sản giao lại cho ông Vũ 3 giá trị tàu bằng 300.000.000 đồng. Xét yêu cầu của ông V, yêu cầu nhận tàu và toàn bộ ngư lưới đánh bắt thủy hải sản là không phù hợp, bà T sống trong gia đình có nghề đánh bắt thủy hải sản truyền thống và đang nuôi dưỡng, chăm sóc con chung của ông V và bà T, tàu đánh bắt thủy sản này là phương tiện duy nhất để nuôi sống bà T và con bà T. Do đó giao chiếc tàu đánh bắt thủy hải sản theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số CM - 91788-TS ngày 17/8/2017 do bà Trần Thị T đứng tên quyền sở hữu và toàn bộ ngư lưới đánh bắt thủy hải sản cho bà T là phù hợp. Bà T phải giao lại cho ông Vũ 5 giá trị tàu và toàn bộ ngư lưới đánh bắt thủy hải sản bằng 500.000.000 đồng.
Ông V phải giao lại cho bà T 50% giá trị phần đất tại ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang bằng 75.000.000 đồng và ông Vũ g lại 50% giá trị 02 máy tiện, 01 máy ép bằng 25.000.000 đồng, ông V được nhận 02 máy tiện, 01 máy ép.
Như vậy tài sản chung ông V và bà T mỗi người được chia có giá trị 600.000.000 đồng.
Đối trừ tài sản bà T giao cho ông V 500.000.000 đồng và ông V giao lại cho bà T 100.000.000 đồng, thì bà T còn phải có trách nhiệm giao lại cho ông V số tiền 400.000.000 đồng.
[10] Nợ chung: Buộc ông V và bà T mỗi người phải có trách nhiệm trả 1/2 khoảng nợ cho các chủ nợ cụ thể như sau: Mỗi người trả cho bà Nguyễn Thị D1 550.000.000 đồng, trả cho bà Trịnh Thị L 181.500.000 đồng và 15 chỉ vàng 24k, trả cho bà Ngô Thị T1 36.500.000 đồng, trả cho bà Phan Thị Thanh L1 25.000.000 đồng.
Nợ riêng: Buộc bà Trần Thị T trả cho bà Lê Thúy D2 35.000.000 đồng, trả cho bà Nguyễn Thị Đ1 150.000.000 đồng, trả cho bà Phan Thị Thanh L1 86.000.000 đồng, trả cho bà Tô Thị H5 (Tô Kim H4) 82.000.000 đồng, trả cho bà Phạm Ngọc H3 48.000.000 đồng, trả cho bà Trần Thị N1 150.000.000 đồng.
[11] Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Trường V, bà Trần Thị T với ông Tô Minh H, bà Nguyễn Thị D1 ngày 11/11/2020 đối với phần đất tại khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau và tài sản trên đất. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa các đương sự thừa nhận không có việc chuyển nhượng mà do phía ông V, bà T thiếu tiền bà D1, ông H nên các bên lập hợp đồng chuyển nhượng để làm tin, do các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Đối với Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 15/8/2023 giữa ông V với ông Nguyễn Xuân H6 phần đất tại ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang do các bên không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Phát biểu kiểm sát viên tại phiên tòa có căn cứ được chấp nhận.
[12] Chi phí tố tụng, án phí: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ 200.000 đồng, chi phí tạm ứng đo đạc 4.000.000 đồng (do ông V không lấy kết quả đo đạc), tổng chi phí 4.200.000 đồng ông V đồng ý tự chịu (đã thực hiện xong).
Án phí có giá ngạch chia tài sản chung: Ông V và bà T mỗi người phải chịu 28.000.000 đồng.
Án phí có giá ngạch trả nợ chung ông V, bà T mỗi người chịu 38.562.000.000 đồng (số tiền mỗi người phải trả là 793.000.000 đồng và 15 chỉ vàng 24k, giá vàng 6.160.000 đồng/01 chỉ vàng 24k).
Án phí có giá ngạch trả nợ riêng bà T phải chịu 26.040.000 đồng (tổng số tiền phải trả 551.000.000 đồng).
Tổng án phí có giá ngạch ông V phải chịu 66.562.000 đồng, bà T phải chịu 92.602.000 đồng.
Bà D1, bà L, bà T1, chị D2, bà H4, bà H3, bà L1, bà Đ1 và Ngân hàng TMCP C được nhận lại số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm.
Số tiền tạm ứng án phí bà K1, bà Á đã dự nộp được sung vào công quỹ nhà nước. Bà Trần Thị N1 là người cao tuổi được miễn dự nộp tiền tạm án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 157, 227, 228, 217 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 33, 37, 38, 45, 46 Luật hôn nhân và gia đình; điểm b, e khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Trường V đối với bà Trần Thị T về việc yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Trần Thị T đối với ông Nguyễn Trường V về việc yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn.
Giao cho ông Nguyễn Trường V được quyền sở hữu 02 máy tiện, 01 máy ép.
Giao cho bà Trần Thị T được quyền sở hữu tàu đánh bắt thủy hải sản theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá số CM - 91788-TS ngày 17/8/2017 do bà Trần Thị T đứng tên quyền sở hữu và toàn bộ ngư lưới cụ đánh bắt thủy hải sản.
Buộc bà Trần Thị T giao lại cho ông Nguyễn Trường V số tiền chênh lệch sau khi phân chia tài sản chung là 400.000.000 đồng.
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Trường V yêu cầu chia tài sản chung là phần đất tại thửa số 77 tờ bản đồ số 7, diện tích 343,4m2 do bà Trần Thị T đứng tên quyền sử dụng đất ngày 18/9/2014, đất tọa lạc tại khóm E, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau; trên đất có nhà ở, nhà trọ và nhà bến sông (nhà xưởng).
Đình chỉ yêu cầu độc lập của Ngân hàng Thương Mại Cổ phần C về việc yêu cầu ông Nguyễn Trường V và bà Trần Thị T trả tổng số tiền tạm tính đến ngày 11/8/2023 la 1.052.081.701 đồng (nợ gốc 1.010.377.553 đồng, lãi 41.704.148 đồng) và tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất trong các hợp đồng cho vay cho đến khi trả hết nợ.
Đình chỉ yêu cầu độc lập của bà Huỳnh Phụng K1 về việc yêu cầu ông Nguyễn Trường V, bà Trần Thị T trả số tiền 200.000.000 đồng.
Đình chỉ yêu cầu độc lập của bà Hồ Thị Hồng Á về việc yêu cầu ông Nguyễn Trường V, bà Trần Thị T trả số tiền 31.000.000 đồng.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị D1, bà Trình Thị L4, bà Ngô Thị T1 và một phần yêu cầu độc lập của bà Phan Thị Thanh L1 đối với ông Nguyễn Trường V, bà Trần Thị T về trách nhiệm trả nợ.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của Trần Thị N1, bà Nguyễn Thị Đ1 và và một phần yêu cầu độc lập của bà Phan Thị Thanh L1, bà Phạm Ngọc H3, bà Tô Thị H5, bà Lê Thúy D2 đối với bà Trần Thị T về trách nhiệm trả nợ.
Không chấp nhận yêu cầu độc lập của Trần Thị N1, bà Nguyễn Thị Đ1 và một phần yêu cầu độc lập của bà Phan Thị Thanh L1, bà Phạm Ngọc H3, bà Tô Thị H5, bà Lê Thúy D2 đối với ông Nguyễn Trường V có trách nhiệm cùng bà Trần Thị T trả nợ.
Buộc ông Nguyễn Trường V, bà Trần Thị T mỗi người phải trả cho bà Nguyễn Thị D1 550.000.000 đồng, trả cho bà Trịnh Thị L 181.500.000 đồng và 15 chỉ vàng 24k, trả cho bà Ngô Thị T1 36.500.000 đồng, trả cho bà Phan Thị Thanh L1 25.000.000 đồng.
Buộc bà Trần Thị T trả cho bà Lê Thúy D2 35.000.000 đồng, trả cho bà Nguyễn Thị Đ1 150.000.000 đồng, trả cho bà Phan Thị Thanh L1 86.000.000 đồng, trả cho bà Tô Thị H5 (Tô Kim H4) 82.000.000 đồng, trả cho bà Phạm Ngọc H3 48.000.000 đồng, trả cho bà Trần Thị N1 150.000.000 đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người bị thi hành án không thi hành xong khoản tiền phải thi hành án, thì còn phải chịu thêm khoản tiền lãi phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả.
2. Về chi phí tố tụng:
Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ 200.000 đồng, chi phí tạm ứng đo đạc 4.000.000 đồng (do ông V không lấy kết quả đo đạc), tổng chi phí 4.200.000 đồng ông Vũ t1 chịu (đã thực hiện xong).
3. Về án phí sơ thẩm có giá ngạch:
Án phí có giá ngạch ông Nguyễn Trường V phải chịu 66.562.000 đồng, ngày 07/8/2023 ông V đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 46.000.000 đồng biên lai thu số 0007197 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được chuyển thu đối trừ, ông V còn phải nộp tiếp 26.562.000 đồng. Bà Trần Thị T phải chịu 92.602.000 đồng, ngày 29/9/2023 bà T dự nộp tạm ứng án phí số tiền 1.875.000 đồng biên lai thu số 0007384 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được chuyển thu đối trừ, bà T còn phải nộp tiếp 90.727.000 đồng.
Bà Nguyễn Thị D1, bà Trịnh Thị L, bà Ngô Thị T1, chị Lê Thúy D2, bà Tô Thị H5, bà Phạm Ngọc H3, bà Phan Thị Thanh L1, bà Nguyễn Thị Đ1 và Ngân hàng TMCP C không phải chịu án phí sơ thẩm. Các ngày 21/9/2023, 14/9/2023, 15/9/2023, 16/10/2023, 13/11/2023, 19/10/2023, 16/10/2023, 19/10/2023, 21/9/2023, bà D1 đã dự nộp số tiền 22.500.000 đồng biên lai thu số 0007371, bà L đã dự nộp số tiền 12.566.000 đồng biên lai thu số 0007361, bà T1 đã dự nộp số tiền 1.825.000 đồng biên lai thu số 0007363, chị D2 đã dự nộp số tiền 875.000 đồng biên lai thu số 0004842, bà H5 đã dự nộp số tiền 2.050.000 đồng biên lai thu số 0004063, bà H3 đà dự nộp số tiền 1.200.000 đồng biên lai thu số 0004872, bà L1 đã dự nộp số tiền 3.400.000 đồng biên lai thu số 0004841, bà Đ1 đã dự nộp số tiền 3.750.000 đồng biên lai thu số 0004873 và Ngân hàng TMCP C đã dự nộp số tiền 21.781.000 đồng biên lai thu số 0007370 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được nhận lại.
Ngày 16/10/2023 bà Huỳnh Phụng K1 đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 5.000.000 đồng biên lai thu số 0004843 và ngày 08/11/2023 bà Hồ Thị Hồng Á đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 775.000 đồng biên lai thu số 0004031 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được sung vào công quỹ nhà nước.
4. Quyền kháng cáo, kháng nghị: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết bản án theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo luật định.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn số 57/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 57/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 02/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về