TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 22/2024/DS-PT NGÀY 04/04/2024 VỀ TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN CHUNG
Trong các ngày, từ ngày 28 tháng 3 năm 2024 đến ngày 04 tháng 4 năm 2024, tại Phòng xử án, Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, xét xử phúc thẩm vụ án dân sự thụ lý số 146/2022/TLPT-DS ngày 30/12/2022 về “Tranh chấp chia tài sản chung” do Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2022/DS-ST ngày 30/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 53/2024/QĐ-PT ngày 12/3/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: chị Lê Thị Thu T, sinh năm 1980 Địa chỉ: xóm G, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, có mặt.
- Bị đơn:
+ Ông Lê Tiến V, sinh năm 1942, có mặt + Bà Nguyễn Thị V1, sinh năm 1944, vắng mặt Cùng địa chỉ: xóm G, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An Đại diện theo ủy quyền của ông Lê Tiến V, bà Nguyễn Thị V1: ông Lê Tiến H, sinh năm 1969, có mặt Địa chỉ: xóm C, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Nguyễn Khâm H1, sinh năm 1969 Địa chỉ: xóm C, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, có mặt.
+ Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1975 Địa chỉ: xóm C, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, vắng mặt.
+ Anh Lê Tiến T1, sinh năm 1982 Địa chỉ: thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt (có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt).
+ Ông Lê Tiến H, sinh năm 1969 Địa chỉ: xóm C, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, có mặt.
+ Bà Võ Thị K, sinh năm 1984 Địa chỉ: xóm C, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, vắng mặt Đại diện theo ủy quyền của bà Võ Thị K: ông Lê Tiến H, sinh năm 1969.
Địa chỉ: xóm C, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 11 năm 2021 và đơn khởi kiện đề ngày 27 tháng 10 năm 2021, quá trình tố tụng tại Tòa án cũng như tại phiên tòa - nguyên đơn - chị Lê Thị Thu T trình bày:
Thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ, năm 1994 gia đình bố mẹ đẻ chị Lê Thị Thu T là ông Lê Tiến V, bà Nguyễn Thị V1 được chia đất nông nghiệp cho 04 nhân khẩu gồm: ông V, bà V1, anh Lê Tiến T1 và chị Lê Thị Thu T. Đến năm 1997, được nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích đất được cấp cho hộ gia đình ông V, bà V1 bao gồm: đất ở, đất vườn và tất cả diện tích đất nông nghiệp của tiêu chuẩn 04 nhân khẩu được chia theo Nghị định 64. Sau dồn điền đổi thửa theo Chỉ thị 08, Tổng diện tích các thửa đất nông nghiệp được của hộ gia đình ông V, bà V1 là 2.811m2. Ông V, bà V1 đã giao cho em ruột chị T là anh Lê Tiến T1 diện tích đất nông nghiệp để canh tác với diện tích 1.311m2 (gồm đất màu và đất lúa) tại khu vực đồng M. Diện tích đất lúa còn lại là 1.500m2, ông V, bà V1 sử dụng (thửa đất này thuộc xứ Đồng Gì). Chị T cho rằng chị là thành viên trong gia đình ông V, bà V1 và đã được Nhà nước chia đất nông nghiệp cùng chung trong hộ gia đình này nên chị làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc xem xét chia phần diện tích đất nông nghiệp theo tiêu chuẩn được chia theo Nghị định 64 của Chính phủ, đã chuyển đổi theo chỉ thị 08. Chị T yêu cầu được chia tài sản chung là đất nông nghiệp nêu trên là 700m2 trong tổng diện tích đất mà ông V và bà V1 đang quản lý và sử dụng là 1.500m2 tại khu vực Đ. Tuy nhiên, diện tích đất này bố mẹ đẻ chị T và vợ chồng ông H đã tự ý bán cho ông Nguyễn Khâm H1. Việc ông V, không được sự đồng ý của chị T, đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chị T nên chị T yêu cầu tuyên giao dịch đất nông nghiệp lập ngày 05 tháng 3 năm 2021 vô hiệu, đồng thời buộc ông H1 phải trả lại cho chị T 700m2 đất nông nghiệp tại khu V, xã N.
Quá trình tố tụng và tại phiên tòa - bị đơn ông Lê Tiến V và bà Nguyễn Thị V1 trình bày: ông Lê Tiến V, bà Nguyễn Thị V1 là vợ chồng hợp pháp, có 04 con chung gồm: Lê Tiến H, Lê Thị N, Lê Thị Thu T, Lê Tiến T1. Gia đình ông bà được Nhà nước cấp đất theo Nghị định 64/CP, tổng diện tích đất nông nghiệp và đất ở theo khẩu sau đó được dồn điền đổi thửa là 4.766m2. Theo quy định của Nhà nước thì các con đã được ông bà chia đất như sau: chị T được chia tại đồng M, diện tích 01 sao 10 thước (tương đương 700m2); anh T1 được chia khu vực Đ, diện tích 01 sào 10 thước (tương đương 700m2). Hiện nay, diện tích đất nông nghiệp được chia theo khẩu của gia đình ông còn lại 1.500m2, do tuổi cao, sức yếu nên ông bà đã cho vợ chồng con trưởng là Lê Tiến H, Võ Thị K. Ngày 05 tháng 3 năm 2021, ông bà cùng vợ chồng ông H, bà K chuyển nhượng diện tích đất trên 1.500m2 cho ông Nguyễn Khâm H1 (là cháu ngoại của vợ chồng ông bà) với giá 450.000.000 đồng, mục đích để ông bà có tiền chữa bệnh và sinh hoạt hằng ngày. Nay chị T khởi kiện, yêu cầu được chia đất nông nghiệp diện tích 700m2 như trên, ông bà không đồng ý, vì chị T đã được chia 01 khẩu tại đồng Mô Hướng, diện tích 700m2 nên chị T không có quyền đòi chia đất nông nghiệp của ông bà tại Đ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Lê Tiến T1 trình bày:
Năm 1994, thực hiện Nghị định 64 của Chính phủ, gia đình anh được Nhà nước giao đất nông nghiệp cho 4 nhân khẩu gồm: bố mẹ anh là ông Lê Tiến V, bà Nguyễn Thị V1 và chị Lê Thị Thu T, anh (Lê Tiến T1). Năm 1997, Ủy ban nhân dân huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Lê Tiến V, phần đất nông nghiệp đó nằm trong diện tích 4.776m2 trong đó có 200m2 đất ở, 1.100m2 đất vườn và 533m2 đất màu, còn lại 2.903m2 đất lúa. Thực hiện Chỉ thị 08 dồn điền đổi thửa, gia đình anh được cấp đổi lại cho 4 khẩu, gồm: Mô hướng 1.605m2, Mô Diệu 605m2, một thửa ở Đ 1.500m2, và 01 thửa ở Đ 706m2. Khi Hợp tác xã giao đất có 04 khẩu, giao chung cho ông V, bà V1, sau đó bố mẹ anh cho chị T canh tác Đồng Gì 706m2, thửa của ông V, bà V1 tại Mô H3 giao cho anh canh tác. Thửa ở Đ 1.500m2 giao cho 02 nhân khẩu là ông V, chị T. Nay chị T yêu cầu chia tài sản chung là thửa ở Đ 1.500m2 thì anh đồng ý như yêu cầu khởi kiện của chị T.
- Ông Nguyễn Khâm H1 trình bày:
Ngày 05/3/2021, ông cùng ông V, ông H, chị Kký giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất là thửa ở Đ, diện tích là 1.500m2 với giá chuyển nhượng là 450.000.000 đồng, ông đã giao tiền cho ông V và ông H, việc mua bán, chuyển nhượng đất do ông thực hiện với những người nêu trên, không liên quan đến vợ ông (bà H2). Sau đó, ông đã cải tạo làm ao nuôi cá và san lấp trồng cây. Nay chị T yêu cầu chia đất nông nghiệp đối với thửa đất trên và yêu cầu anh phải trả lại diện tích 700m2 đất nông nghiệp mà ông đã nhận chuyển nhượng, ông không đồng ý.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Khâm H1 cho rằng nếu Tòa án tuyên bố giao dịch trên vô hiệu và buộc ông trả lại đất cho chị T, thì ông yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu, buộc chị T hoàn lại cho ông số tiền đã mua đất và chi phí đầu tư trên diện tích đất nhận chuyển nhượng và yêu cầu Tòa án thẩm định, định giá đất cùng chi phí đầu tư để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho ông, lý do: trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, ông không được Tòa án giải thích hậu quả của giao dịch vô hiệu và quyền được yêu cầu giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu nên không biết để yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu Chị T không trả số tiền trên, thì ông nhất định không không trả đất.
Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Nghị Lộc, tỉnh Nghệ An đã quyết định:
Căn cứ vào các Điều 26, Điều 35, Điều 39, khoản 1, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 117, Điều 123, Điều 206, Điều 209, Điều 212, Điều 216, Điều 217, Điều 218, Điều 219 và 220 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử: chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Tuyên giao dịch đất nông nghiệp lập ngày 05 tháng 3 năm 2021 giữa ông Lê Tiến V, bà Nguyễn Thị V1 và ông Lê Tiến H với ông Nguyễn Khâm H1 là vô hiệu một phần.
Chia tài sản chung cho chị Lê Thi Thu T2 diện tích 700m2 đất (LUC) tại thửa đất Đồng Gì thuộc xóm G, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An;
- Buộc ông Nguyễn Khâm H1 phải trả lại cho chị Lê Thị Thu T diện tích 700m2 đất sản xuất nông nghiệp tại xứ Đ, thuộc xóm C, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, vị trí như sau: Phía Đông giáp đường, kích thước 20,81; Phía Tây giáp đường bờ kích thước 29,07m; Phía Nam giáp đường, kích thước 28,66m và Phía Bắc giáp phần đất còn lại của thửa đất kích thước 28,15m (Có sơ đồ kèm theo bản án);
Buộc ông Nguyễn Khâm H1 phải thu hoạch toàn bộ cây cối và tháo dỡ các tài sản trên phần diện tích 700m2 đất nói trên để trả lại mặt bằng đất cho chị T.
Về án phí: Miễn án phí cho ông Lê Tiến V và bà Nguyễn Thị V1.
Trả lại cho chị Lê Thị Thu T số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005100, ngày 01 tháng 11 năm 2021 do Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Lộc phát hành.
Án sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ thi hành án, quyền kháng cáo.
Tại đơn kháng cáo đề ngày 07/10/2022, bị đơn - ông Lê Tiến V kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Nghị Lộc, tỉnh Nghệ An, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại theo hướng không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Thu T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án; nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu bổ sung; bị đơn giữ nguyên kháng cáo, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Thu T.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án như sau:
Về tố tụng:
Thẩm phán đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật từ khi thụ lý giải quyết vụ án để xét xử phúc thẩm đến trước thời điểm nghị án; Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử phúc thẩm vụ việc; người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.
Về nội dung:
Bị đơn có đơn kháng cáo, đúng thời hạn, thuộc trường hợp được miễn nộp tạm ứng án phí nên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm là đúng quy định.
Tại biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã N, ông Phùng Bá M - công chức địa chính xã N xác nhận: Năm 2013 thực hiện chỉ thị 08 của Tỉnh ủy thì hộ gia đình ông Lê Tiến V được dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp giao cho 04 nhân khẩu với tổng diện tích 2.811m2 ở xứ Mô Hướng là 605m2; Đồng Gì 706m2 và Đ 1.500m2. Năm 2014 xóm mới tổng hợp bằng danh sách diện tích đất nông nghiệp sau khi thực hiện Chỉ thị 08/CP thì tại tờ số 13, số thứ tự 65 chủ sử dụng Lê Tiến V - Nguyễn Thị V1 ở xứ Đ diện tích 1500m2 đã phản ánh đã làm thủ tục chuyển cho ông Lê Tiến H; Tờ số 14 số thứ tự 66 phản ánh tên chủ hộ là anh Lê Tiến T1, chị Nguyễn Thị Lê xứ M1 Hướng diện tích 605m2 đã làm thủ tục chuyển cho chị gái...Đối với các hồ sơ cấp giấy CNSD đất nông nghiệp theo Chỉ thị 02 và 08 thì Ủy ban nhân dân xã K1, chỉ lưu trữ hồ sơ theo dõi, sử dụng đất được lập theo Chỉ thị 02 và 08.... Việc chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp ở xứ Mô Hướng diện tích 605m2 và thửa Đồng Gì diện tích 706m2 ai là người trực tiếp làm thủ tục chuyển nhượng thì địa phương không rõ.
Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn - bà Lê Thị Thu T cho rằng 1500m2 ở xứ Đồng Gì hiện đã được ông V, bà V1 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Khâm H1. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông V, bà V1, ông H đều trình bày ông V, bà V1 đã chuyển nhượng diện tích đất nêu trên cho ông H, việc chuyển nhượng đã được phản ánh vào sổ sách của xã. Khi ông V, bà V1 chuyển nhượng đất cho ông H1 thì vợ chồng ông H, bà V1 tham gia với tư cách là người làm chứng. Hợp đồng chuyển nhượng đất nông nghiệp ngày 05/3/2021 có chữ ký của ông V, bà V1, ông H1, ông H và bà K (người làm chứng).
Như vậy, theo lời khai của các đương sự thì 1.500m2 ở xứ Đ đã được ông V, bà V1 chuyển nhượng cho ông H1 theo giao dịch chuyển nhượng ngày 05/3/2021, do đó thửa đất tranh chấp không còn là tài sản chung của hộ gia đình ông V. Ngày 27/10/2021, bà T khởi kiện yêu cầu được chia 700m2 đất trong 1.500m2 ở xứ Đ đã được ông V, bà V1 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Khâm H1. Do đó để có cơ sở giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của nguyên đơn thì phải xem xét giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông V, bà V1 với ông H1 để giải quyết triệt để quyền lợi, nghĩa vụ của các bên liên quan đến giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/3/2021. Quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm, nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch chuyển nhượng đất ngày 05/3/2021 giữa ông H1 và vợ chồng ông V vô hiệu một phần. Ông H1 trình bày nếu phải trả lại đất cho nguyên đơn thì phải thanh toán chi phí ông đã bỏ ra để tôn tạo, cải tạo đất. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố giao dịch chuyển nhượng đất giữa ông V, bà V1 với ông H1 vô hiệu nhưng lại nhận định các đương sự chưa yêu cầu giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu là không chính xác vì quá trình giải quyết vụ án ông H1 trình bày nếu phải trả lại đất thì phải trả lại tiền chuyển nhượng đất và bồi thường giá trị tài sản trên đất, công sức tôn tạo đất cho ông H1. Bên cạnh đó, Tòa án cấp sơ thẩm chưa giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu nhưng lại buộc ông H1 phải trả lại 700m2 đất đã nhận chuyển nhượng trong khi không xem xét, giải quyết quyền lợi của ông Hoàng liên q đến giao dịch chuyển nhượng là không triệt để, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H1. Mặt khác, tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ thể hiện ông V, bà V1 đã chuyển nhượng 1.500m2 đất, trong đó có 700m2 đất tranh chấp cho ông H nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ nội dung này để có cơ sở triệu tập đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng.
Ngoài ra quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm còn có những vi phạm như sau:
- Về tố tụng: ngày 21/7/2022 bà Lê Thị Thu T có đơn khởi kiện bổ sung, yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu một phần hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất giữa ông H, bà K, ông V và bà V1. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm không ban hành thông báo thụ lý, không yêu cầu đương sự nộp tạm ứng án phí, không công khai chứng cứ, hòa giải đối với yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn là không đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Tại Đơn kiến nghị ngày 14/7/2021, bà Lê Thị Thu T trình bày diện tích đất nông nghiệp tại Đ đã được ông Nguyễn Khâm H1 lại bán cho một chủ khác. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ nội dung này; chưa làm rõ tài sản trên đất do ông H1 tạo lập hay do người khác tạo lập để có cơ sở giải quyết triệt để vụ án.
- Theo thông báo nộp tạm ứng án phí và biên lai thu tạm ứng án phí thì nguyên đơn bà Lê Thị Thu T đã nộp 1.015.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng bản án tuyên “trả lại cho chị T 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp” là không chính xác.
Từ những phân tích nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự: hủy bản án sơ thẩm số 25/2022/DS-ST ngày 30/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Nghị Lộc, tỉnh Nghệ An để giải quyết lại theo thủ tục chung.
Về án phí dân sự phúc thẩm: bị đơn không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng Vụ án về việc "Tranh chấp chia tài sản chung" thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc nên Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.
Đơn kháng cáo của bị đơn - ông Lê Tiến V nộp cho Tòa án trong thời hạn luật định; ông Lê Tiến V thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí nên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An thụ lý, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm là đúng pháp luật.
Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa cấp sơ thẩm thực hiện đúng quy định pháp luật, không bị khiếu nại; các hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong quá trình xét xử phúc thẩm thực hiện đúng quy định pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, có mặt nguyên đơn, bị đơn (ông Lê Tiến V), người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (ông Lê Tiến H), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông Nguyễn Khâm Hl); vắng mặt bà Nguyễn Thị V1 (bị đơn) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị K (đều đã ủy quyền cho ông Lê Tiến H), anh Lê Tiến T1 (đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt), bà Nguyễn Thị H2 (vợ ông H1). Các đương sự có mặt không ai đề nghị hoãn phiên tòa vì sự vắng mặt của những đương sự trên; đại diện Viện cho rằng bà Nguyễn Thị H2 không tham gia tố tụng từ giai đoạn xét xử sơ thẩm, nên việc vắng mặt bà H2 không ảnh hưởng đến kết quả xét xử phúc thẩm. Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử theo quy định pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn - ông Lê Tiến V, thấy rằng:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã có những sai sót, vi phạm sau:
[2.1] Không xem xét, giải quyết giao dịch chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp 1.500m2 (trong đó có 700m2 đất đang tranh chấp trong vụ án) giữa ông Lê Tiến V, bà Nguyễn Thị V1 với ông Lê Tiến H, bà Võ Thị K (giao dịch được thể hiện tại: i, Tờ số 13 và số 14 sổ Tổng hợp diện tích đất nông nghiệp sau khi thực hiện Chỉ thị 08/CT của xã N, huyện N lập ngày 23/8/2014, có chứng thực do Ủy ban nhân dân xã N cung cấp; ii, lời thừa nhận của ông Lê Tiến V, ông Lê Tiến H, bà Võ Thị K - vợ ông H và iii, Kết luận của Ủy ban nhân dân xã N tại Thông báo số 21/TB-UBND ngày 16/6/2021), dẫn đến không giải quyết triệt để vụ án nên chua đủ cơ sở chứng minh yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Thu T là có căn cứ và hợp pháp, là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
[2.2] Ông Lê Tiến V, bà Nguyễn Thị V1, ông Lê Tiến H, bà Võ Thị K là bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp (đất đang tranh chấp) cho ông Nguyễn Khâm H1 (theo Giấy chuyển nhượng đất nông nghiệp đề ngày 05/3/2021). Vợ chồng ông H, bà K có trách nhiệm khi làm cho giao dịch trên vô hiệu và có nghĩa vụ về tài sản do giao dịch vô hiệu, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông H, bà K tham gia tố tụng trong vụ án (không tham gia trong bất kỳ giai đoạn tố tụng nào). Tại phiên tòa phúc thẩm, ông H đề nghị hủy Bản án sơ thẩm để vợ chồng ông H được tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc bỏ sót người tham gia tố tụng như trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của đương sự được pháp luật quy định, bảo vệ, là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
[2.3] Nguyên đơn yêu cầu bổ sung (yêu cầu tuyên giao dịch chuyển nhượng đất giữa ông V, bà V1, ông H, bà K và ông Nguyễn Khâm H1 vô hiệu), nhưng Tòa án không yêu cầu nộp tạm ứng án phí và nguyên đơn chưa nộp tạm ứng án phí; Tòa án không ra thông báo yêu cầu bổ sung nhưng vẫn xem xét, giải quyết yêu cầu trên của nguyên đơn là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
[24] Trong quá trình xét xử sơ thẩm, ông Nguyễn Khâm H1 khai nại: nếu ông phải trả đất cho chị Lê Thị Thu T (nguyên đơn) thì chị T phải hoàn trả cho ông H1 tiền mua đất và chi phí cải tạo, đầu tư trên đất đó. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố giao dịch chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp 1.500m2 (trong đó có 700m2 đất đang tranh chấp trong vụ án) giữa ông Lê Tiến V, bà Nguyễn Thị V1, ông Lê Tiến H, bà Võ Thị K và ông Nguyễn Khâm H1 vô hiệu, nhưng không giải thích rõ quyền được yêu cầu giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu và nhận định các đương sự chưa yêu cầu giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu là không chính xác. Tòa án chưa giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu nhưng buộc ông Nguyễn Khâm H1 phải trả 700m2 đất đã nhận chuyển nhượng cho chị T mà không xem xét, giải quyết quyền lợi của ông H1 là đã giải quyết vụ án không triệt để, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Khâm H1 Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Khâm H1 tiếp tục yêu cầu như trên và yêu cầu thẩm định, định giá tài sản đang tranh chấp. Sai sót này cấp phúc thẩm không thể khắc phục được.
[2.5] Tại phần nhận định của Bản án, xác định nguyên đơn và bị đơn tranh chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp. Phần quyết định, Tòa án áp dụng các điều luật của Bộ luật dân sự quy định về tài sản chung và giải quyết chia tài sản chung là mâu thuẫn, không đảm bảo quy định pháp luật.
[2.6] Tòa án cấp sơ thẩm không buộc ông Nguyễn Khâm H1 phải chịu án phí là thiếu sót.
[2.7] Theo thông báo nộp tạm ứng án phí và biên lai thu tạm ứng án phí thì nguyên đơn - chị Lê Thị Thu T đã nộp 1.015.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm nhưng Tòa án quyết định “trả lại cho chị T 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp” là không chính xác.
Những sai sót, vi phạm trên là cơ bản, nghiêm trọng, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2022/DS-ST ngày 30/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc. Giao hồ sơ vụ án trên cho Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản khoản 3 Điều 308 và Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
- Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2022/DS-ST ngày 30/9/2022 về “Tranh chấp chia tài sản chung” của Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
- Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: bị đơn - ông Lê Tiến V không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm./.
Bản án về tranh chấp chia tài sản chung số 22/2024/DS-PT
Số hiệu: | 22/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 04/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về