TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 79/2023/DS-PT NGÀY 27/12/2023 VỀ TRANH CHẤP CHIA DI SẢN THỪA KẾ
Ngày 27 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 49/2023/TLPT-DS ngày 12 tháng 10 năm 2023 về việc tranh chấp chia di sản thừa kế.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2023/DS-ST ngày 23 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện An D, thành phố Hải Phòng có kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2023/QĐ-PT ngày 03 tháng 11 năm 2023, Quyết định hoãn phiên toà số 89/2023/QĐ-PT ngày 30 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Bùi Thị X; địa chỉ: Khu 3 H, phường T, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải D; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đỗ Hoàng D – Luật sư của Công ty Luật TNHH MTV A thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Ch (tên gọi khác: Tr); địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền cho bị đơn: Anh Bùi Văn D; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng (Văn bản ủy quyền ngày 27/11/2023 tại UBND xã H, huyện An D);
có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Bùi Thị H1; địa chỉ: Tổ K 4, phường N, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng; có mặt.
2. Bà Bùi Thị Đ; địa chỉ: Thôn 5 Đ, xã T, huyện An D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
3. Bà Bùi Thị T1; địa chỉ: Thôn 1 K, xã T, huyện An D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
4. Ông Bùi Văn T2; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền cho ông Bùi Văn T2: Anh Bùi Văn T3 sinh năm 1982; địa chỉ: Thôn K, xã T, huyện An D, thành phố Hải Phòng (Văn bản ủy quyền số chứng thực 516 ngày 23/8/2023 của UBND xã H, huyện An D); có mặt.
5. Ông Bùi Văn Đ1; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
6. Ông Bùi Văn M1; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
7. Chị Bùi Thị H2; địa chỉ: Thôn Ngọ D, xã An Hòa, huyện An D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
8. Chị Bùi Thị H3; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
9. Anh Bùi Văn D; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
10. Anh Bùi Văn G; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
11. Chị Trần Thị M3; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
12. Chị Nguyễn Thị Th; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bùi Thị H2, Bùi Thị Hiện, Bùi Văn G, Trần Thị M3 và Nguyễn Thị Th: Anh Bùi Văn D; địa chỉ: Thôn H, xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng (Văn bản ủy quyền ngày 27/11/2023 tại UBND xã H, huyện An D); có mặt.
- Người kháng cáo: Bà Bùi Thị X là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, tại phiên tòa sơ thẩm, bà Bùi Thị X trình bày:
Bố bà là cụ Bùi Văn L sinh năm 1922 chết ngày 01/4/1986 (ngày 18/3/1986 âm lịch) nhưng không làm thủ tục khai tử tại địa phương, mẹ là cụ Hồ Thị Xn sinh năm 1922 chết năm 2021; các cụ chết đều không để lại di chúc. Cụ L và cụ Xn sinh được 08 người con gồm Bùi Thị X, Bùi Thị H1, Bùi Thị Đ, Bùi Văn Tu, Bùi Thị T1, Bùi Văn T2, Bùi Văn Đ1, Bùi Văn M1; các cụ không có con riêng, con nuôi. Ông Tu chết năm 2018, có vợ là bà Nguyễn Thị Ch sinh được 04 người con gồm Bùi Văn D, Bùi Thị H2, Bùi Thị H3, Bùi Văn G. Ông Tu không có con riêng, con nuôi. Quá trình chung sống bố mẹ bà tạo dựng được 02 thửa đất; cụ thể thửa số 357 tờ bản đồ 7 xã H, huyện An D diện tích 1.752m2 (Sau đây viết tắt là Thửa đất số 357) và thửa đất ao số 380 tờ bản đồ số 07 xã H, huyện An D diện tích 124m2 (Sau đây viết tắt là Thửa đất số 380). Trên đất trước đây có tài sản nhưng hiện nay không còn. Toàn bộ diện tích đất đứng tên ông Bùi Văn Tu được thể hiện tại sổ sách quản lý đất đai xã H, không có tài liệu thể hiện bố mẹ bà là người đứng tên chủ sử dụng đất. Hai thửa đất đứng tên ông Tu là do bố mẹ bà có sự thỏa thuận với ông Tu, bà Ch về nội dung ông Tu bà Ch sẽ chuyển đổi thửa đất đang ở tại khu vực bến đò H xã H để cho ông M1 ra đó ở để ông Tu bà Ch vào đất của bố mẹ bà ở. Khi bà về thăm bố mẹ thì có được cụ L, cụ Xn nói ý nguyện của việc chuyển đổi này nhưng đến năm 1987 mới chuyển đổi. Bà không có ý kiến phải đối việc bố mẹ chuyển đổi đất vì cho rằng đó là đất của bố mẹ nên thuộc quyền bố mẹ quyết định. Thửa đất hiện nay chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai, các công trình trên đất đều do ông Tu cùng vợ con ông Tu xây dựng. Nay bà đề nghị Tòa án chia thừa kế là đất theo diện tích đo vẽ thực tế cho bà được hưởng bằng hiện vật. Đối với số tiền chi phí thẩm định và định giá tài sản đã tự nguyện nộp, bà không yêu cầu bị đơn cũng như các đương sự khác trong vụ án phải chịu.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Ch và người đại diện là anh Bùi Văn D trình bày: Thống nhất với trình bày của bà X về quan hệ huyết thống trong gia đình, nguồn gốc thửa đất thổ cư số 357 và thời điểm cụ L chết như bà X trình bày như trên là đúng. Quá trình sử dụng đất, khi các cụ còn sống có nói việc chuyển đổi đất với nội dung ông Tu bà Ch sẽ đổi thửa đất đang ở tại khu vực bến đò H xã H để cho ông M1 ra đó ở và về ở tại đất của cụ L cụ Xn. Năm 1987 chuyển đổi thực tế, việc chuyển đổi này được sự đồng ý của tất cả các con cụ L và cụ Xn nhưng không lập thành văn bản. Ông Tu đã được ghi tên trong sổ quản lý đất đai địa phương. Tài sản trên đất của cụ L và cụ Xn không còn do khi các cụ còn sống đã đồng ý cho ông Tu bà Ch phá đi để xây dựng công trình sử dụng. Đối với thửa đất ao số 380 sau khi chuyển đổi xong ông Tu bà Ch về ăn ở mới khai hoang. Nay nguyên đơn có yêu cầu chia thừa kế đối với cả 2 thửa đất bà Ch không đồng ý và đề nghị Tòa án công nhận 2 thửa đất trên theo diện tích đo vẽ mới là của bà Ch và ông Tu; bà không đề nghị gì khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bùi Thị H1, Bùi Thị Đ, Bùi Thị T1, Bùi Văn T2, Bùi Văn M1 thống nhất trình bày: Đồng ý với quan điểm trình bày của bà X và đề nghị được chia bằng hiện vật để sử dụng. Đối với thửa đất số 380 không phải như ý kiến của bà Ch trình bày mà thửa đất này là do bố mẹ tạo dựng. Vợ chồng bà Ch và các con chỉ sử dụng đất và có tu bổ, tôn tạo bờ ao xung quanh.
Ông M1 trình bày bổ sung: Thửa đất ông đang sử dụng là do trước đây vợ chồng ông Tu ở, trước khi cụ L chết cụ có ý nguyện chuyển đổi đất như bà X trình bày nhưng cụ L chỉ nói cho ông Tu và ông M1 biết. Thực hiện ý nguyện của bố và được sự đồng ý của cụ Xn năm 1987 vợ chồng ông Tu về đất của bố mẹ ở, ông chuyển ra thửa đất của ông Tu ở. Nguồn gốc thửa đất ông Tu ở là do bố mẹ xin Nhà nước cấp cho các con chứ không phải cho người con cụ thể nào. Năm 2009 vợ chồng ông được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bùi Văn D, Bùi Thị H2, Bùi Thị Hiện, Bùi Văn G, Trần Thị M3, Nguyễn Thị Th thống nhất trình bày: Thống nhất với quan điểm trình bày của bà Ch, anh D không đề nghị gì khác.
Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện như sau:
Ủy ban nhân dân xã H cho biết: Ủy ban nhân dân xã H có Sổ mục kê năm 1996 là sổ duy nhất quản lý đất đai. Sổ quản lý đất đai trước năm 1996 địa phương không còn lưu giữ. Thửa đất số 357 và Thửa đất số 380 được thể hiện duy nhất tại Sổ mục kê năm 1996, đứng tên người sử dụng là ông Bùi Văn Tu.
Việc đóng thuế đất: Bà Ch và ông Tu là người đóng thuế 2 thửa đất trên.
Ông Đỗ Văn Ng nguyên cán bộ địa chính xã H cung cấp:
Trước năm 1970 ông Nguyễn Văn Tr1 làm công tác địa chính sau đó ông tiếp nhận từ năm 1989 đến năm 2012. Từ trước đến nay xã H chỉ có duy nhất sổ mục kê năm 1996 để quản lý đất đai. Thửa đất số 357 và Thửa đất số 380 được thể hiện duy nhất tại Sổ mục kê năm 1996, đứng tên người sử dụng là ông Bùi Văn Tu; không có thông tin cụ Xn, cụ L đứng tên thửa đất. Trước khi về Thửa đất số 357 ở, ông Tu bà Ch sinh sống tại thửa đất gần gia đình ông. Khoảng năm 1987 thì thấy vợ chồng ông M1 chuyển ra nhà đất của ông Tu bà Ch ở, ông Tu bà Ch về ở cùng cụ Xn cụ L. Việc các bên chuyển đổi cho nhau không báo chính quyền địa phương. Thửa đất sau này ông M1 chuyển ra ở là do được Nhà nước cấp cho ông Tu bà Ch. Do ông Tu là người sử dụng Thửa đất số 357 và 380, thực hiện nghĩa vụ tài chính nên được ghi tên trong sổ quản lý đất đai của địa phương.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 21/2023/DS-ST ngày 23 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện An D, thành phố Hải Phòng đã quyết định:
Căn cứ vào các điều 92, 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 690, 691 của Bộ luật Dân sự năm 1995; Luật đất đai 1993; Án lệ số 40/2021/AL ngày 13 tháng 12 năm 2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của bà Bùi Thị X đối với diện tích đo thực tế 1821,6m2 tại thửa số 357 tờ bản đồ 7 xã H, huyện An D và diện tích đo thực tế 186,2m2 tại thửa đất ao số 380 tờ bản đồ số 07 xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Ch; công nhận diện tích đo thực tế 1821,6m2 tại thửa đất số 357 tờ bản đồ 7 xã H, huyện An D có các mốc giới 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 1 và diện tích đo thực tế 186,2m2 tại thửa đất ao số 380 tờ bản đồ số 07 xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng có các mốc giới 1a, 2a, 3a, 4a, 5a, 6a, 7a, 8a, 9a, 10a, 11a, 1a thuộc quyền sở hữu của ông Bùi Văn Tu và bà Nguyễn Thị Ch (tên gọi khác: Tr).
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/8/2023, bà Bùi Thị X có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm với lý do quyết định của bản án là không khách quan, không đúng bản chất sự việc, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các anh chị em của bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Nguyên đơn trình bày: Các cụ chết không để lại di chúc. Các thửa đất do vợ chồng ông Tu, bà Ch quản lý sử dụng có nguồn gốc là của bố mẹ nguyên đơn. Năm 1987 do là con trưởng nên vợ chồng ông Tu về ở trên thửa đất các cụ để thuận lợi cho việc chăm sóc mẹ già. Ông M1 ra diện tích đất của ông Tu ở. Năm 1996 do ở cùng với cụ Xn nên ông Tu kê khai hai thửa đất trên, nguyên đơn và những đồng thừa kế không biết việc này. Bà là chị lớn nhất trong gia đình: Nguồn gốc cái ao là của bố mẹ bà, không phải là do vợ chồng bà Ch khai hoang. Việc vợ chồng ông Tu về ở với bố mẹ để chăm sóc bố mẹ là tốt, bà không có ý kiến gì. Tu nhiên, diện tích đất lớn, hơn 2000m2 đất, bố mẹ bà đông con có 08 người con, có ông T2 chưa có đất bố mẹ để lại. Nên các anh chị em muốn chia một phần diện tích đất để cho ông T2 và một phần diện tích đất làm nơi thờ cúng. Năm 2022 nguyên đơn và những đồng thừa kế yêu cầu chia thừa kế các thửa đất này. Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn mà chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu chia thửa kế của nguyên đơn.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Về tài sản trên đất không có tranh chấp gì. Về hàng thừa kế các bên đã thống nhất. Nguồn gốc hai thửa đất là của các cụ để lại. Gia đình ông Tu về ở thì diện tích đất ao tại thửa 380 đã hình thành rồi. Về việc đổi đất: Không có việc đổi đất giữa vợ chồng ông Tu, bà Ch và ông M1. Cụ L chết năm 1986 đến năm 1987 vợ chồng ông Tu về trên đất ở để thuận tiện cho việc chăm sóc mẹ già. Các bên thừa nhận không có việc họp gia đình hay biên bản thống nhất về việc chuyển đổi đất. Nếu có việc đổi đất phải có sự thống nhất đồng ý của các đồng thừa kế. Như vậy không có việc chuyển đổi đất nên việc áp dụng Án lệ số 40 là không đúng quy định của pháp luật. Do đó, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chia di sản thừa kế của các cụ để lại cho các đồng thừa kế.
Bị đơn trình bày: Vợ chồng bà ở ổn định đất ở khu vực bến đò H, do vợ chồng bà được sự chỉ đạo của bố mẹ là con trưởng vào ở cùng bố mẹ để gánh vác việc thờ cúng tổ tiên và chăm sóc bố mẹ khi già yếu. Sau khi cụ L chết thì cụ Xn ở cùng với vợ chồng bà, vợ chồng bà là người chăm cụ. Các chị em trong gia đình thỉnh thoảng có về nhà thăm mẹ. Khi vợ chồng bà phá nhà cũ để xây nhà mới các anh chị em còn động viên xây khang trang lên cho mẹ ở. Khi bà chia đất cho các con làm nhà cũng không ai có ý kiến gì. Bà Ch tự nguyện rút yêu cầu phản tố về việc công nhận diện tích đất 1821,6m2 tại thửa đất số 357 tờ bản đồ 7 xã H, huyện An D và diện tích đất 186,2m2 tại thửa đất ao số 380 tờ bản đồ số 07 xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng thuộc quyền sở hữu của ông Bùi Văn Tu và bà Nguyễn Thị Ch.
Nguyên đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đồng ý với việc bị đơn rút yêu cầu phản tố và không có ý kiến gì.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơ n là anh Bùi Văn D trình bày: Thửa đất đầu tiên ông M1 đang ở do bố mẹ anh được cấp năm 1980, bố mẹ anh xây nhà ở đó. Đến năm 1986 ông nội anh ốm nên gọi các con vào và bảo chuyển đất để bố mẹ anh chuyển vào nhà đất của ông bà nội ở, còn ông M1 ra thửa đất của bố mẹ anh ở. Bố mẹ anh ở ổn định trên đất hơn 30 năm đóng thuế đầy đủ. Còn thửa đất ao là của bố mẹ anh khai lập, không phải của các cụ để lại. Năm 2008 anh xây nhà trên đất, các cô chú đều biết và không ai có ý kiến phản đối gì.
Ông Bùi Văn M1 trình bày: Bố ông chết năm 1986, trước thời điểm bố ông mất thì bố mẹ nói chuyển đất ra chỗ bác trưởng ở, còn bác trưởng vào ở với mẹ. Thời điểm đó ông mới lớn, cũng không hiểu biết nhiều nên đồng ý ra đất của bác trưởng ở. Bố ông là chủ hộ gia đình xin cấp đất cho con, đất chỗ ông Tu ở cũng là của bố mẹ ông được cấp. Ông ra ở chưa có giấy tờ gì, ông không nhận giấy tờ bàn giao gì từ ông Tu, sau đó ông mới làm giấy tờ, trích đo.
Anh Bùi Văn G trình bày: Khi các cụ còn sống cả, các cụ đều đã nói với các cô các chú về việc đổi đất. Năm 2016 anh xây nhà, các cô chú đều không ai có ý kiến gì.
Bà Bùi Thị H1 trình bày: Khi bố mẹ bảo vợ chồng ông Tu về ở đất của bố mẹ và ông M1 ra ở đất của ông Tu đang ở thì anh em cứa ở thôi chứ bố mẹ không cho gì cả.
Bà Bùi Thị Đ trình bày: Bố mẹ bà chỉ bảo con trưởng vào ở với bố mẹ để chăm sóc bố mẹ và thờ cúng tổ tiên, còn con út ra đất của ông Tu ở.
Bà Bùi Thị T1 trình bày: Bố mẹ bà chỉ bảo con trưởng vào ở với bố mẹ để chăm sóc bố mẹ và thờ cúng tổ tiên. Nguyên nhân mâu thuẫn do ông T2 chưa có đất của các cụ để lại nên muốn có mảnh đất nên có đơn xin ở xã nên xảy ra tranh chấp.
Anh Bùi Văn T3 trình bày: Năm 1986 có việc ông bà bảo vợ chồng ông Tu vào ở đất của ông bà và cho ông M1 ra đất của ông Tu. Nguồn gốc diện tích đất của ông Tu mà ông M1 ra ở là do ông bà xin theo chế độ giãn dân chứ không phải đất của ông Tu được cấp.
Chị Trần Thị M3 trình bày: Năm 2008 vợ chồng chị làm nhà, các cô các chú về có nói là vui mừng vì các cháu xây nhà to. Khoảng năm 2011 ông T2 có xin đất thì bà nội chị có nói là không đồng ý, ông T2 đã có đất của các cụ cho rồi. Do đó mới xảy ra tranh chấp.
Chị Bùi Thị H3, chị Bùi Thị M3, chị Nguyễn Thị Th thống nhất với lời trình bày của bà Nguyễn Thị Ch, anh Bùi Văn D, anh Bùi Văn G.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành đúng các quyền và nghĩa vụ, tham gia phiên tòa theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Xét kháng cáo của nguyên đơn là bà Bùi Thị X:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để xác định: Thửa đất thổ cư số 357, có diện tích đo vẽ thực tế là 1821,6m2 và thửa đất ao số 380, có diện tích đo vẽ thực tế là 186,2m2 đều thuộc tờ bản đồ số 07, xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng đều có nguồn gốc là tài sản của cụ Bùi Văn L, Bùi Thị Xn tạo lập được khi các cụ còn sống.
Tại thời điểm tranh chấp, cả nguyên đơn và bị đơn, cùng những người liên quan đều thống nhất trình bày: Trước năm 1987, khi hai cụ còn sống đã thỏa thuận với vợ chồng ông Tu, bà Ch việc chuyển đổi thửa đất của các cụ cho vợ chồng ông Tu, để đổi lấy diện tích đất khác của vợ chồng ông Tu cho ông M1 đến ăn ở, sinh sống. Diện tích đất các bên đã chuyển đổi hiện vẫn được gia đình ông Tu, gia đình ông M1 sinh sống, xây dựng nhà ở ổn định trên 30 năm và thực hiện các nghĩa vụ đóng thuế với địa phương. Việc chuyển đổi được thực hiện khoảng năm 1987, không được lập thành văn bản nhưng vẫn được các bên thống nhất thừa nhận tại thời điểm hiện tại. Nguyên đơn cho rằng hai cụ chỉ đổi nhà ở cho con, nguồn gốc đất ông M1 ở là đất của bố mẹ không phải của ông Tu nên không có việc đổi đất là không có căn cứ để chấp nhận. Tại giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa, bị đơn đã rút yêu cầu phản tố về việc công nhận diện tích đất tại các thửa số 357, 380, tờ bản đồ số 07, xã H cho bị đơn, phía nguyên đơn đồng ý. Căn cứ Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự cần hủy một phần bản án dân sự sơ thẩm và đình chỉ giải quyết đối với nội dung này. Không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Bùi Thị X đối với yêu cầu khởi kiện về việc chia thừa kế. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1,3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm:
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn là bà Bùi Thị X. Hủy một phần bản án dân sự sơ thẩm số 21/2023/DS-ST ngày 23/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện An D, thành phố Hải Phòng và đình chỉ giải quyết đối với nội dung phản tố của bị đơn; các nội dung khác của bản án giữ nguyên. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án và sau khi tranh tụng công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy:
- Về tố tụng:
[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bà Bùi Thị X có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bố mẹ để lại là diện tích tại thửa số 357 tờ bản đồ 7 diện tích 1.752m2 và thửa đất ao số 380 tờ bản đồ số 07 xã H, huyện An D diện tích 124m2. Bị đơn là bà Tr, là người quản lý sử dụng diện tích đất có nơi cư trú tại xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng.
Căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An D, thành phố Hải Phòng. Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn có đơn kháng cáo. Xét kháng cáo của nguyên đơn trong thời hạn luật định, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng thụ lý xét xử phúc thẩm vụ án là đúng thẩm quyền theo qui định của pháp luật.
[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Bùi Văn T2 vắng mặt đã có người đại diện theo ủy quyền có mặt; ông Bùi Văn Đ1 đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên.
[3] Về thời hiệu khởi kiện: Đây là vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản. Cụ Bùi Văn L sinh năm 1922 chết ngày 01/4/1986 (ngày 18/3/1986 âm lịch), cụ Hồ Thị Xn sinh năm 1922 chết năm 2021. Ngày 14/10/2022, nguyên đơn bà Bùi Thị X khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ L và cụ Xn để lại.
Đối với di sản thừa kế của cụ L, thời hiệu khởi kiện tính từ ngày 10/9/1990, trên đất có nhà, như vậy đến thời điểm khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là vẫn còn. Đối với di sản thừa kế của cụ Xn là còn trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự.
[4] Về yêu cầu phản tố của bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị Ch có đơn phản tố yêu cầu công nhận diện tích đất 1821,6m2 tại thửa đất số 357 tờ bản đồ 7 xã H, huyện An D và diện tích đất 186,2m2 tại thửa đất ao số 380 tờ bản đồ số 07 xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng thuộc quyền sở hữu của ông Bùi Văn Tu và bà Nguyễn Thị Ch (tên gọi khác: Tr). Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là yêu cầu phản tố của bị đơn và công nhận diện tích đất nêu trên của bị đơn là không đúng. Bởi lẽ, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với hai thửa đất nêu trên, bị đơn đề nghị công nhận diện tích đất nêu trên thuộc quyền quản lý sử dụng hợp pháp của bị đơn. Đây là ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không phải là yêu cầu phản tố. Tại cấp phúc thẩm, bị đơn rút yêu cầu phản tố, nguyên đơn đồng ý với việc rút yêu cầu phản tố của bị đơn. Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm, căn cứ Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự, hủy và đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của bị đơn.
- Về nội dung: Xét kháng cáo của nguyên đơn:
[5] Về nguồn gốc đất: Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện: Theo Sổ mục kê năm 1996, thửa đất số 357 và thửa đất số 380 đứng tên người sử dụng là ông Bùi Văn Tu. Sổ quản lý đất đai trước năm 1996 địa phương không còn lưu giữ. Về việc đóng thuế đất: Bà Ch và ông Tu là người đóng thuế 2 thửa đất trên. Theo lời khai của ông Đỗ Văn Ng nguyên cán bộ địa chính xã H cung cấp: Trước năm 1970 ông Nguyễn Văn Tr1 làm công tác địa chính sau đó ông tiếp nhận từ năm 1989 đến năm 2012. Từ trước đến nay xã H chỉ có duy nhất sổ mục kê năm 1996 để quản lý đất đai. Thửa đất số 357 và Thửa đất số 380 được thể hiện duy nhất tại Sổ mục kê năm 1996, đứng tên người sử dụng là ông Bùi Văn Tu; không có thông tin cụ Xn, cụ L đứng tên thửa đất. Trước khi về Thửa đất số 357 ở, ông Tu bà Ch sinh sống tại thửa đất gần gia đình ông. Khoảng năm 1987 thì thấy vợ chồng ông M1 chuyển ra nhà đất của ông Tu bà Ch ở, ông Tu bà Ch về ở cùng cụ Xn cụ L. Việc các bên chuyển đổi cho nhau không báo chính quyền địa phương. Thửa đất sau này ông M1 chuyển ra ở là do được Nhà nước cấp cho ông Tu bà Ch. Do ông Tu là người sử dụng Thửa đất số 357 và 380, thực hiện nghĩa vụ tài chính nên được ghi tên trong sổ quản lý đất đai của địa phương. Các bên đương sự đều khẳng định thửa đất số 357 có nguồn gốc là của cụ Bùi Văn L và Hồ Thị Xn. Đối với thửa 380, bà Nguyễn Thị Ch khẳng định là diện tích đất do vợ chồng bà về ở mới khai hoang thêm. Song bà Ch không có tài liệu chứng cứ chứng minh việc khai hoang đất. Như vậy, có đủ căn cứ khẳng định thửa đất số 357 diện tích 1.752m2 có nguồn gốc là của hai cụ Bùi Văn L và Hồ Thị Xn.
[6] Về việc đổi đất: Các đương sự đều xác nhận: Quá trình sử dụng đất, khi các cụ còn sống có nói việc chuyển đổi đất với nội dung ông Tu bà Ch sẽ đổi thửa đất đang ở tại khu vực bến đò H xã H để cho ông M1 ra đó ở và về ở tại đất của cụ L cụ Xn. Năm 1987 giữa vợ chồng ông Tu, bà Ch và ông M1 thực hiện việc đổi đất nêu trên. Việc đổi đất giữa các bên mặc dù không được lập thành văn bản, song các bên đã thực hiện xong và thực tế ăn ở, sinh sống ở diện tích đất đã đổi. Việc này các con của cụ L và cụ Xn đều biết và không có ai có ý kiến gì. Diện tích đất ông M1 ra ở có nguồn gốc ông Tu, bà Ch được cấp. Năm 2009 ông M1 cũng đã được cấp GCNQSDĐ đối với diện tích đất nêu trên. Điều đó thể hiện, trước khi làm thủ tục cấp GCNQSDĐ phải có sự đồng ý của ông Tu, bà Ch thì ông M1 mới được cấp GCNQSDĐ đối với diện tích đất ông M1 ra ở. Như vậy, có đủ cơ sở xác định có việc đổi đất để ông Tu, bà Ch vào diện tích đất của bố mẹ ở và ông M1 ra diện tích đất mà ông Tu, bà Ch được cấp. Các đương sự trong vụ án đều có lời khai thể hiện có việc đổi đất nêu trên. Đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[7] Ông Tu, bà Ch quản lý sử dụng diện tích đất nêu trên từ năm 1987 đến nay. Đến thời điểm khởi kiện (năm 2022) là 35 năm, sử dụng ổn định không có tranh chấp, năm 1996 ông Tu đã đăng ký kê khai và có tên trong sổ sách quản lý đất đai tại địa phương. Sau khi về trên đất của các cụ ở, các đương sự đều thừa nhận, ông Tu, bà Ch đã phá nhà cũ của các cụ đi để xây xây nhà mới ở kiên cố trên diện tích đất tranh chấp. Năm 2008 anh D là con trai lớn của vợ chồng ông Tu xây nhà, năm 2016 anh G xây nhà và sinh sống ổn định trên diện tích đất nêu trên. Các đồng thừa kế biết việc đổi đất và hàng năm vẫn về cúng giỗ, nhưng không có ý kiến gì. Cụ L ở cùng vợ chồng ông Tu, bà Ch, đến năm 2021 cụ L mới mất. Như vậy, về mặt ý chí thể hiện cụ L và các con đã thừa nhận diện tích đất trên là thuộc quyền quản lý sử dụng của ông Tu, bà Ch, nên diện tích đất tranh chấp không còn là di sản thừa kế của cụ L và cụ Xn nữa. Do đó, việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế đối với diện tích đất nêu trên là không có căn cứ chấp nhận.
[8] Từ phân tích nêu trên, căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn bà Bùi Thị X là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 299, khoản 1 Điều 308, Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các điều 690, 691 của Bộ luật Dân sự năm 1995; Căn cứ Luật đất đai 1993;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Tuên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 21/2023/DS-ST ngày 23 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện An D, thành phố Hải Phòng:
Không chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của bà Bùi Thị X đối với diện tích đo thực tế 1821,6m2 tại thửa số 357 tờ bản đồ 7 xã H, huyện An D và diện tích đo thực tế 186,2m2 tại thửa đất ao số 380 tờ bản đồ số 07 xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng.
2. Hủy và đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của bị đơn về việc: Công nhận diện tích đo thực tế 1821,6m2 tại thửa đất số 357 tờ bản đồ 7 xã H, huyện An D có các mốc giới 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 1 (có sơ đồ kèm theo bản án) và diện tích đo thực tế 186,2m2 tại thửa đất ao số 380 tờ bản đồ số 07 xã H, huyện An D, thành phố Hải Phòng có các mốc giới 1a, 2a, 3a, 4a, 5a, 6a, 7a, 8a, 9a, 10a, 11a, 1a (có sơ đồ kèm theo bản án) thuộc quyền sở hữu của ông Bùi Văn Tu và bà Nguyễn Thị Ch (tên gọi khác: Tr).
3. Về án phí: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà Bùi Thị X .
4. Về quyền thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp chia di sản thừa kế số 79/2023/DS-PT
Số hiệu: | 79/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về