Bản án về tranh chấp chia di sản thừa kế số 75/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TH XÃ TÂN CHÂU, TNH AN GIANG

BẢN ÁN 75/2023/DS-ST NGÀY 30/09/2023 VỀ TRANH CHẤP CHIA DI SẢN THỪA KẾ

Ngày 30 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 25/2022/TLST-DS, ngày 03 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp chia di sản thừa kế” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 185/2023/QĐXXST-DS, ngày 29 tháng 8 năm 2023, Quyết định ngừng phiên tòa số 154/2023/QĐST-DS ngày 20/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hiếu L, sinh năm 1974, địa chỉ cư trú: số A đường N, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang. Chổ ở hiện nay: Tổ 8, khóm M, phường A, thành phố Hồng Ngự, tinh Đ; có mặt

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1966, địa chỉ cư trú: số A đường N, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang; có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Anh Nguyễn Nhơn H, sinh năm 1988, địa chỉ cư trú: số A đường N, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang; có đơn xin vắng mặt ngày 12/12/2022

3.2. Anh Nguyễn Nhơn T, sinh năm 1992, địa chỉ cư trú: số A đường N, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang, có đơn xin vắng mặt ngày 12/12/2022.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 14/02/2022 và lời khai trong quá trình giải quyết, nguyên đơn ông Nguyến Hiếu L1 trình bày:

Lúc sinh tiền cha, mẹ ông Nguyễn Văn B (sinh năm 1945 - chết 2020) và bà Đoàn Thị H1 (sinh năm 1945 - chết năm 2005) có sinh được 02 người con tên Nguyễn Thị Kim P và Nguyễn Hiếu L. Ông B và bà H1 có tạo lập 01 (một) căn nhà kết cấu khung gỗ, vách gỗ, máy tole, nền lót gạch tàu, diện tích ngang 4,2 m, dài xuống mé sông (không biết dài bao nhiêu) gắn liền trên diện tích 52 m2 đất tọa lạc đường N, ấp L, thị trấn T, huyện T (nay là khóm L, phường L, thị xã T) (nhà và đất chưa được cấp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Căn nhà và đất được cha mẹ ông L mua lại của ông X (không rồ họ). Sau khi bà Đoàn Thị H1 chết, đến khoảng năm 2009, 2010 thì Nhà nước có dự án san lấp kênh V và tái định cư, cấp nền nhà cho cha ông L là ông Nguyễn Văn B diện tích 59,98 m2 (theo kết quả đo đạc 61 m2) tại số A đường N, khóm L, phường L, thị xã T, tinh A.

Năm 2014, bà P xây dựng căn nhà, kết cấu khung bê tông cốt thép, vách gạch + tole, máy tole, cột gỗ gắn liền trên đất diện tích 61m2 (nguồn tiền xây dựng căn nhà trên đất là của bà P). Đến năm 2020, ông Nguyễn Văn B chết, bà P quản lý, sử dụng đến nay. Ông L yêu cầu chia di sản thừa kế của cha mẹ diện tích 59,98 m2 đất. thành 02 kỷ phần bằng nhau, mỗi bên 50% giá trị, trị giá đất 1.800.000.000 đồng. Ông L không nhận đất, yêu cầu nhận tiền 900.000.000 đồng. Đơn khởi kiện ông L có yêu cầu chia căn nhà gắn liền với diện tích đất, trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên Tòa ông L tự nguyện rút yêu cầu đối với căn nhà.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Kim P trình bày: Thống nhất lời khai của ông Nguyễn Hiếu L trình bày nêu trên, căn nhà do bà bỏ tiền xây dựng nên thuộc sở hữu của bà P, bà P yêu cầu nhận đất, trị giá đất 1.000.000.000 (Một tỷ) đồng, bà P hoàn chênh lệch cho ông L 500.000.000 đồng.

Anh Nguyễn Nhơn T và anh Nguyễn Nhơn H trình bày: Hiện nay, anh T và anh H đang sống chung nhà với mẹ ruột tên Nguyễn Thị Kim P tại số A đường N, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang. Căn nhà được bà P xây dựng gắn liền trên phần đất tọa lạc số 108 đường N, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang. Nguồn gốc đất là của ông bà ngoại anh tên Nguyễn Văn B và bà Đoàn Thị H1 tạo lập, anh T và anh H không có ý kiến và yêu cầu gì cả. Anh T và anh Hòa đồng ý với yêu cầu của bà P là được tiếp tục sinh sống tại căn nhà gắn liền với đất đang tranh chấp để làm chỗ ở và thờ cúng ông bà, đồng ý chia 50% giá trị di sản cho ông Nguyễn Hiếu L sau khi trừ chi phí xây dựng nhà (2,8 lượng vàng 24 kara), với lý do ông L đã không còn sinh sống trong căn nhà đang tranh chấp.

Quá trình tiến hành tố tụng, bị đơn bà Nguyễn Thị Kim P cung cấp biên bản giao nền nhà ngày 06/11/2014 tái định cư cho ông Nguyễn Văn B thể hiện diện tích 59,98 m2 đất, nhưng theo kết quả đo đạc tại bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 24/10/2022 của Văn phòng Đ1 - Chi nhánh T1 thể hiện diện tích tranh chấp là 61 m2 và đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Trước phiên tòa hôm nay, ông L với bà P thống nhất tự thỏa thuận với nhau diện tích 59,98 m2 giá trị là 1.100.000.000 đồng, bà P nhận nền và bà P trong hạn 03 tháng kể từ ngày mở phiên tòa bà P hoàn trả cho ông L 550.000.000 đồng là 50% giá trị nền nhà, bà P có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước thẩm quyền kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất. Đối với căn nhà trên đất là của bà P tự bỏ tiền ra xây dựng nên không có tranh chấp.

Ủy ban nhân dân thị xã T, tỉnh An Giang có Công văn số 890/UBND-NC ngày 19/5/2023 và Công văn số 1311/UBND, ngày 26/7/2023 có ý kiến về nền đất cấp cho hộ ông Nguyễn Văn B như sau:

- Diện tích 59,98 m2 đất tọa lạc tại khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang thuộc quy hoạch tuyến dân cư Kênh Vĩnh A được UBND thị xã phê duyệt theo Quyết định số 2897/QĐ-UBND ngày 19/9/2012 của UBND thị xã T, về việc phê duyệt danh sách 646 hộ tái định cư tại chỗ Dự án: TDC K, thị trấn T, huyện T (nay thuộc phường L và phường L, thị xã T); Để được cấp giấy chứng nhận QSD đất: Hộ ông Nguyễn Văn B phải thực hiện nghĩa vụ tài chính về giá nền tái định cư 208.000đ/m2 và khu đất không có phát sinh tranh chấp.

- Trường hợp trên được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Biên bản giao nền nhà ngày 06/11/2014 tái định cư cho Hộ ông Nguyễn Văn B với diện tích là 59,98 m2.

- Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 06/5/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu thể hiện: Diện tích đất ngang 4,10m, dài 14,63m, diện tích 59,98 m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tọa lạc tại số A, đường N, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang. Trên đất có căn nhà kết cấu:

+ Nhà A có kết cấu: Khung bê tông cốt thép, vách gạch, mái tole, nền gạch men, trần nhựa loại 3.1.

+ Căn nhà B: Nền gạch men, cột gỗ, vách tường cao l,2m + tole, mái tole, không trần, nhà B có gác lửng. Kết cấu sàn ván, cột gỗ, vách tole, mái tole, diện tích 4,1 m x 4,1 m, loại 3.3.

- Bản trích đo hiện trạng khu đất, do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh T1 đo vẽ ngày 24/10/2022 thể hiện khu đất diện tích 59,98 m2 có các điểm mia 1,2,3,8,5,6.

- Biên bản định giá tài sản theo giá thị trường của Hội đồng định giá tài sản thị xã T đã định ngày 24/3/2023 như sau:

+ Đất có gái 13.000.000 đồng/m2 X tích 59,98 m2= 779.740.000 đồng;

+ Nhà A: Có giá 3.057.000 đồng/m2 X 61 m2= 186.477.000 đồng + Nhà B: Có giá 2.547.000 đồng/m2 X 5,852 m2 X 50% giá trị sử dụng (không vách, không hệ thống điện nước) = 7.452.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản là 973.669.000 đồng (chín trăm bảy mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi chín nghìn chẵn) * Chi phí tố tụng ông Nguyễn Hiếu L đã tạm ứng 3.167.000 đồng: Trong đó chỉ định giá ngày 24/3/2023 số tiền 400.000 đồng, nhận kết quả đo đạc Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh T1 ngày 27/10/2022 số tiền 1.856.520 đồng, chi xem xét, thẩm định ngày 05/5/2022 số tiền 600.000 đồng, ký hợp đồng đo đạc ngày 08/4/2022 số tiền 310.000 đồng Toà án tiến hành lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và biên bản hòa giải nhưng không thành.

Tại phiên tòa, ông L, bà P giữ nguyên yêu cầu, anh H và anh T vắng mặt, Ông L2, bà P xác định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho Tòa án, không còn cung cấp thêm chứng cứ nào khác; anh H, anh T không cung cấp chứng cứ.

Hội đồng xét xử công bố các tài liệu chứng cứ: Công văn số 890/UBND-NC ngày 19/5/2023 và Công văn số 1311/UBND, ngày 26/7/2023, Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 06/5/2023, Biên bản định giá tài sản theo giá thị trường của Hội đồng định giá tài sản thị xã T đã định ngày 24/3/2023, đơn xin vắng mặt của các đương sự ngày 12/12/2022;

- Ý kiến của Kiểm sát viên:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký trong thời gian chuẩn bị xét xử. Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án thực hiện đúng, đầy đủ quy định Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Việc tuân thủ pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án tại phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của pháp luật.

Ý kiến về giải quyết vụ án: Trước phiên tòa các đương sự ông L2 và bà P thống nhất chia thừa kế diện tích 59,98 m2 trị giá nền đất 1.100.000.000 đồng và thống nhất giao nền cho bà P, bà P trả cho ông L2 50% giá trị bằng 550.000.000 đồng. Xét thấy đây sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Các đương sự chịu án phí và chi phí tố tụng theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ và các chứng cứ vụ án được công bố thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử (sau đây gọi là HĐXX) xét thấy:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng: Đây là vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế” theo quy định tại khoản 5 Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn khởi kiện bị đơn bà Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1966, địa chỉ: số A đường N, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang; tài sản là di sản thừa kế tọa lạc tại phường L, thị xã T. Xét, quan hệ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu thụ lý giải quyết.

[2] Sự vắng mặt của các đương sự: Anh Nguyễn Nhơn T, Nguyễn Nhơn H có đơn xin vắng. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Theo Quyết định Quyết định số 2897/QĐ-UBND ngày 19/9/2012 của UBND thị xã T, về việc phê duyệt danh sách 646 hộ tái định cư tại chỗ Dự án: TDC K, thị trấn T, huyện T (nay thuộc phường L và phường L, thị xã T. Trong Quyết định trên có danh sách kèm theo gồm 646 hộ, trong đó có hộ ông Nguyễn Văn B được tái định cư 01 nền. Theo nguyên tắc, trường hợp quyền sử dụng đất thuộc hộ nếu có yêu cầu thì giải quyết chia tài sản là sở hữu chung cho các thành viên trong hộ. Trong vụ án này trong suốt quá trình tố tụng (trong hộ ông B có 04 người là bà P, ông L2, anh T và anh H). Anh T, anh H, bà P và ông L2 đều thống nhất đây là di sản của ông B và bà H1. Đồng ý chia thành 02 phần gồm bà P và ông L2 mỗi người 50% giá trị tài sản, do đó không đặt ra xem xét giải quyết chia cho hộ.

[3] Xét về hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Văn B, ông B với bà H1 có 02 người con như các đương sự đã thừa nhận với nhau là ông L2 và bà P1. Như vậy hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Văn B có 02 người.

Xét di sản của ông B để lại theo bà P và ông L2 trình bày và thừa nhận, ông Bằng k để lại di chúc và cũng chưa phân chia cho ai cả.

- Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 06/5/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Tân thể hiện: Diện tích đất ngang 4,10m, dài 14,63m, diện tích 59,98 m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tọa lạc tại số A, đường N, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang. Trên đất có căn nhà kết cấu:

+ Nhà A có kết cấu: Khung bê tông cốt thép, vách gạch, mái tole, nền gạch men, trần nhựa loại 3.1.

+ Căn nhà B: Nền gạch men, cột gỗ, vách tường cao l,2m + tole, mái tole, không trần, nhà B có gác lửng. Kết cấu sàn ván, cột gỗ, vách tole, mái tole, diện tích 4,1 m X 4,1 m, loại 3.3.

- Bản trích đo hiện trạng khu đất, do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh T1 đo vẽ ngày 24/10/2022 thể hiện khu đất diện tích 59,98 m2 có các điểm mia 1,2,3,8,5,6.

Quyền sử dụng đất diện tích 59,98 m2 do bà Nguyễn Thị P đang quản lý, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trên đất có nhà A có kết cấu: Khung bê tông cốt thép, vách gạch, mái tole, nền gạch men, trần nhựa loại 3.1. Căn nhà B: Nền gạch men, cột gỗ, vách tường cao 1,2m + tole, mái tole, không trần, nhà B có gác lửng. Kết cấu sàn ván, cột gỗ, vách tole, mái tole, diện tích 4,1 m X 4,1 m, loại 3.3, đây là di sản của bà P tự bỏ tiền ra xây dựng, ông L2 với bà P1 không có tranh chấp nên không đặt ra giải quyết.

Quyền sử dụng đất diện tích 59,98 m2 do bà Nguyễn Thị p đang quản lý. Nay bà P và ông L2 thống nhất chia thừa kế thành 02 phần bằng nhau và bà P với ông L2 thống nhất giá trị nền bằng 1.100.000.000 đồng, bà P nhận nền và trong hạn 03 tháng kể từ ngày 30/9/2023 bà P hoàn trả cho ông L2 550.000.000 đồng bằng 50% giá trị nền đất, sự tự nguyện, thỏa thuận trên của các đương sự xét thấy phù hợp được Hội đồng xét xử công nhận.

Biên bản lấy lời khai ngày 27/9/2023 Tòa án có giới thiệu ông L2 đến Công ty T2 để ký hợp đồng định gái lại, ông L2 đã ký hợp đồng với công ty T2 và ông L2 đã tạm ứng phí định giá 2.000.000 đồng cho công ty. Ông L2 khẳng định ông không yêu cầu định giá (rút lại yêu cầu) đối với công Ty T2 và ông L2 cũng không yêu cầu cơ quan, tổ chức nào định giá lại nền đất diện tích 59,98 m2 Tạm giao cho bà P quản lý sử dụng nền đất trên. Bà Nguyễn Thị Kim P có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà nước thẩm quyền kê khai đăng ký quyền sử dụng diện tích đất 59,98 m2 có các điểm mia 1,2,3,8,5,6 trong bản trích đo hiện trạng khu đất, do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh T1 đo vẽ ngày 24/10/2022. Trên đất có căn nhà A có kết cấu: Khung bê tông cốt thép, vách gạch, mái tole, nền gạch men, trần nhựa loại 3.1. và căn nhà B: Nền gạch men, cột gỗ, vách tường cao l,2m + tole, mái tole, không trần, nhà B có gác lửng. Kết cấu sàn ván, cột gỗ, vách tole, mái tole, loại 3.3. do bà P tự xây dựng, không có tranh chấp.

Tổng diện tích đo đạc nền là 61 m2 trong đó có diện tích 1,02 m2 không nằm trong quyết định số 2897/QĐ-UBND, ngày 19/9/2012 do UBND thị xã T cấp, các đương sự không yêu cầu vì vậy Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Anh Nguyễn Nhơn H và Nguyễn Nhơn T thống nhất ý kiến trình bày của bà P, không có yêu cầu đối với tài sản và di sản trên nên không đặt ra xem xét.

Ông Nguyễn Hiếu L tự nguyện rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với chia di sản là căn nhà trên diện tích đất tranh chấp, xét thấy phù hợp Hội đồng xét xử đình chỉ.

[5] Về chi phí tố tụng ông Nguyễn Hiếu L đã tạm ứng tổng số tiền 3.166.000 đồng: trong đó; định giá ngày 24/3/2023 số tiền 400.000 đồng, nhận kết quả đo đạc Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh T1 ngày 27/10/2022 số tiền 1.857.000 đồng, chi xem xét, thẩm định ngày 05/5/2022 số tiền 600.000 đồng, ký hợp đồng đo đạc ngày 08/4/2022 số tiền 310.000 đồng. Theo quy định thì do chia di sản thừa kế cho ông L và bà P được hưởng nên mỗi người phải chịu 50%, do ông L tạm ứng trước nên bà P có nghĩa vụ hoàn trả lại cho ông L số tiền 1.583.000 đồng.

[6] Về án phí DSST: Theo quy định về di sản thừa kế chia theo pháp luật mỗi người được hưởng phải chịu 5% án phí mà phần mình được hưởng. Vậy tính ra ông L và bà P mỗi người phải chịu 26.000.000 đồng. Ông L được chuyển 12.300.000 đồng tạm ứng án phí sang theo các biên lai 0007370 ngày 08/3/2023, phiếu thu số 0005997 ngày 01/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự Tân châu. Vậy ông Nguyễn Hiếu L còn phải nộp thêm 13.700.000 đồng.

Anh Nguyễn Nhơn H và Nguyễn Nhơn T không phải chịu tiền án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 5 Điều 26; Điều 35; Điều 39; Điều 147, Điều 157, Điều 165, khoản 2 Điều 227 và khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 609; 610; 611; 612; 613; 614; 623; 649; 651; 652 và Điều 660 của Bộ luật dân sự. Điểm a Khoản 7 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hiếu L.

1. Công nhận di sản của cụ Nguyễn Văn B để lại gồm diện tích 59,89 m2 thể hiện các điểm các điểm mia 1,2,3,8,5,6 trong bản trích đo hiện trạng khu đất, do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh T1 đo vẽ ngày 24/10/2022, đất chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ.

2. Công nhận hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Văn B gồm: Bà Nguyễn Thị Kim P và ông Nguyễn Hiếu L.

Công nhận sự thỏa thuận tự phân chia di sản thừa kế theo pháp luật của ông Nguyễn Hiếu L và bà Nguyễn Thị Kim P. Bà Nguyễn Thị Kim P được nhận quyền sử dụng diện tích đất 59,89 m2 các điểm mia 1,2,3,8,5,6 trong bản trích đo hiện trạng khu đất, do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh T1 đo vẽ ngày 24/10/2022 tọa lạc tại số A, đường N, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang. Bà Nguyễn Thị P2 có quyền và nghĩa vụ đến cơ quan nhà nước thẩm quyền kê khai đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Trong hạn 03 tháng kể từ ngày 30/9/2023 bà Nguyễn Thị Kim P có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Nguyễn Hiếu L 50% giá trị nền đất bằng số tiền 550.000.000 (năm trăm năm mươi triệu) đồng.

3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hiếu L đối với yêu cầu chia di sản là căn nhà tọa lạc tại số A, đường N, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang.

5. Về chi phí tố tụng: Bà Nguyễn Thị Kim P có nghĩa vụ hoàn trả lại cho ông Nguyễn Hiếu L số tiền 1.583.000 đong.

6. Về án phí DSST: Ông Nguyễn Hiếu L và bà Nguyễn Thị Kim P mỗi người phải chịu 26.000.000 đồng. Ông L được chuyển 12.300.000 đồng tạm ứng án phí sang theo các biên lai 0007370 ngày 08/3/2023, phiếu thu số 0005997 ngày 01/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự Tân châu. Vậy ông Nguyễn Hiếu L còn phải nộp thêm 13.700.000 đồng.

Anh Nguyễn Nhơn H và Nguyễn Nhơn T không phải chịu tiền án phí.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật,( đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án các đương sự có mặt, có quyền kháng cáo bản án đề yêu cầu tòa xử phúc thẩm.

Thời hạn kháng cáo của những người vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ để yêu cầu tòa xử phúc thẩm Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp chia di sản thừa kế số 75/2023/DS-ST

Số hiệu:75/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:30/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về