TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 44/2022/DS-PT NGÀY 29/05/2023 VỀ TRANH CHẤP, CHIA DI SẢN THỪA KẾ
Ngày 29 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 03/2023/TLPT-DS ngày 18 tháng 01 năm 2023 về việc tranh chấp, thừa kế tài sản, hợp đồng chuyển nhượng Q sử dụng đất, kiện đòi bồi thường tài sản đã bị phá dỡ.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2022/DS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện K, thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 03/2023/QĐ-PT ngày 18 tháng 01 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2023/QĐ-PT ngày 17 tháng 4 năm 2023 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên toà số 33/TB-TA ngày 15 tháng 5 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Bà Bùi Thị V, S năm 1940; nơi cư trú: Thôn 1, xã S, huyện K, thành phố H; có mặt .
Người đại diện hợp pháp của bà Bùi Thị V: Anh Bùi Văn Thành, S năm 1983; nơi cư trú: Thôn 1, xã S, huyện K, thành phố H, là người đại diện theo uỷ Q của bà V; vắng mặt (tại phiên toà bà V không uỷ Q cho ông Thành).
Người bảo vệ Q và lợi ích hợp pháp của bà Bùi Thị V: Ông Nguyễn Đ Ch, Luật sư của Công ty Luật TNHH MTV H P thuộc Đoàn luật sư thành phố H; có mặt (tại phiên toà bà V không yêu cầu ông Ch bảo vệ Q và lợi ích hợp pháp cho bà).
2. Bà Bùi Thị L, S năm 1945; nơi cư trú: Số nhà 304 tổ 8, phường N, quận Đồ S, thành phố H; có mặt
Người bảo vệ Q và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Bùi Thị L: Ông Hoàng Văn Thụy, S năm 1942; nơi cư trú: Số 15A, tổ dân phố 1A, phường N, quận Đồ S, thành phố H; vắng mặt (tại phiên toà bà L không yêu cầu ông Thuỵ bảo vệ Q và lợi ích hợp pháp cho bà).
3. Bà Bùi Thị Nh, S năm 1952; nơi cư trú: Thôn Xuân La, xã Thanh S, huyện K, thành phố H; có mặt
4. Bà Bùi Thị N, S năm 1954; nơi cư trú: Số nhà 41 ngõ 68 đường Trâu Qùy, thị trấn Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; có mặt
5. Ông Bùi Hữu Đ, S năm 1954; nơi cư trú: Thôn Vam Trên, xã Vinh Quang, huyện T, thành phố H; vắng mặt
Người đại diện hợp pháp của ông Bùi Hữu Đ: Bà Đặng Thị L1, S năm 1958; nơi cư trú: Thôn Vam Trên, xã Vinh Quang, huyện T, thành phố H, là vợ của ông Đ; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).
6. Bà Bùi Thị L, S năm 1958; nơi cư trú: Số nhà 7/22 tổ 11, phường Đằng H3, quận H, thành phố H; có mặt.
Người bảo vệ Q và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Bùi Thị L:
Bà Nguyễn Thị Minh Ng và bà Nguyễn Thị L, Luật sư của Công ty Luật TNHH TGS thuộc đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.
Người đại diện hợp pháp của bà Bùi Thị L : Ông Nguyễn Duy H, S năm 2000; nơi cư trú: Số 34/187 Trung Kính, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội; có mặt - Bị đơn:
1. Ông Trần Văn N, S năm 1935; nơi cư trú: Thôn Hồi Xuân (nay là Thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H (ông N đã chết)
2. Bà Bùi Thị D2, S năm 1937; nơi cư trú: Thôn Hồi Xuân (nay là Thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H (bà D2 đã chết);
Những người kế thừa Q, nghĩa vụ tố tụng của bà Bùi Thị D2 và ông Trần Văn N, gồm:
+ Ông Trần Đ S, S năm 1958; nơi cư trú: Tổ dân phố Đồng Tiến, phường Bàng La, quận Đồ S, thành phố H; vắng mặt.
+ Ông Trần Văn H, S năm 1960; nơi cư trú: Thôn Hồi Xuân (nay là Thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; có mặt.
+ Ông Trần Văn H1, S năm 1961, hiện đang cư trú tại nước Đ (không rõ địa chỉ cụ thể); vắng mặt.
+ Bà Trần Thị H4, S năm 1963; nơi cư trú: Thôn Đại Lộc, xã Đại Hợp, huyện K, thành phố H; vắng mặt.
+ Bà Trần Thị H, S năm 1972; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Hồi Xuân, xã S, huyện K, thành phố H; hiện đang cư trú tại nước Đài L (không rõ địa chỉ cụ thể); vắng mặt.
+ Anh Trần Văn Q, S năm 1974; nơi cư trú: Thôn Hồi Xuân (nay là Thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; có mặt.
- Những người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) xã S, huyện K, thành phố H; địa chỉ: Thôn 3, xã S, huyện K, thành phố H;
Người đại diện hợp pháp của UBND xã S: Ông Bùi Văn Vinh – Phó Chủ tịch UBND xã S, là người đại diện theo ủy Q của Chủ tịch UBND xã S; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2. Ông Trần Văn H, S năm 1960 và bà Lê Thị Thảnh, S năm 1966; cùng nơi cư trú: Thôn Hồi Xuân (nay là Thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; đều có mặt;
3. Chị Đồng Thị T, S năm 1979; ĐKHKTT: Số nhà 12/31 đường Phương Lưu, tổ dân phố Phương Lưu 6, phường Đông H3, quận H, thành phố H; nơi ở hiện nay: Số nhà 159 đường Trung Lực, phường Đằng Lâm, quận H, thành phố H; có mặt
4. Anh Đồng Văn S, S năm 1976; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố Độc Lập, phường H3 S, quận Đồ S, thành phố H; hiện đang cư trú tại nước Hàn Quốc (không rõ địa chỉ cụ thể); vắng mặt
5. Ông Nguyễn Văn D, S năm 1967 và bà Nguyễn Thị Chi, S năm 1962; cùng nơi cư trú: Thôn 6, xã S, huyện K, thành phố H; đều vắng mặt.
6. Ông Nguyễn Văn Ph, S năm 1970 và bà Trần Thị H3, S năm 1975; cùng nơi cư trú: Thôn 6, xã S, huyện K, thành phố H; đều vắng mặt.
- Người kháng cáo: Bà Bùi Thị V, Bùi Thị L, Bùi Thị Nh, Bùi Thị N, Đặng Thị L1, Bùi Thị L; chị Đồng Thị T.
- Kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Thuỵ, thành phố H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ và bản án dân sự sơ thẩm nội dung vụ án như sau:
Cụ Bùi Hữu T2, S năm 1912 và cụ Phạm Thị B, S năm 1913 chung sống với nhau từ khoảng năm 1936, S được 07 người con là: Bà Bùi Thị D2; S năm 1937 (đã chết năm 2019); bà Bùi Thị V, S năm 1942; Bùi Thị L, S năm 1945; Bùi Thị Nh1, S năm 1947 (đã chết năm 1980); bà Bùi Thị Nh, S năm 1950; bà Bùi Thị N, S năm 1954; bà Bùi Thị L, S năm 1958. Ngoài ra khoảng năm 1954, cụ T2, cụ B đưa ông Bùi Văn Đ (khi ông Đ được 03 tháng tuổi) về nuôi dưỡng và nhận làm con nuôi. Thời gian chung sống, hai cụ đã tạo dựng được khối tài sản chung gồm: 01 nhà trên 03 gian xây gạch, mái ngói; 01 nhà dưới 03 gian xây gạch; mái ngói; 01 sân gạch; 01 bể nước; 01 chuồng lợn; 01 giếng nước; 01 nhà tắm; 02 cóng;
01 vại, 03 mâm đồng; 01 bàn thờ; 01 bộ tràng kỷ; 01 bàn nhỏ; 01 tủ cá nhân; 02 giường ba xà; và cây cối trên đất gồm: 09 cây mít to, nhỏ; 02 cây trứng gà, 01 cây quéo; 05 cây cau; 19 cây xoan to, nhỏ; 02 cây dừa; 02 cây bưởi (được chứng minh tại Bản án dân sự số 06/PT-DS ngày 17/5/1986 của Tòa án nhân dân thành phố H) trên diện tích đất ở 1086,0m2 tại thôn Hồi Xuân, xã S, huyện K, thành phố H. Nguồn gốc đất là của bố mẹ cụ T2 là kỵ Bùi Hữu Thông và kỵ Vũ Thị Tửu để lại.
Khi bà D2, bà V, bà L, bà N, bà Nh1, bà Nh lấy chồng, ở riêng, chỉ có bà L (còn nhỏ) cùng ông Đ và vợ là bà Đặng Thị L1 ở lại chung sống cùng các cụ tại nhà đất nêu trên. Khi cụ T2 ốm có gọi bà D2 cho bà D2 01 phần đất từ cây chay này đến cây chay kia (là phần đất trống phía bên kia, chỉ có cây cối, không có nhà cửa); việc cho, cụ T2 chi nói miệng, không thể hiện bằng văn bản. Năm 1981 cụ T2 chết, không để lại di chúc. Sau đó, bà D2 cho con là anh Trần Văn H đến xây nhà, tuy nhiên, anh H lại xây lấn sang đất của cụ B 3m chạy dài, cụ B không đồng ý việc anh H xây móng lấn chiếm sang đất bên này. Vì vậy, anh H chỉ xây được móng và dừng lại. Năm 1984, cụ B chết, không để lại di chúc, chỉ còn bà L và vợ chồng ông Đ tiếp tục chung sống tại nhà - đất nêu trên (bà L ở 03 gian nhà trên; vợ chồng ông Đ ở 03 gian nhà dưới). Sau khi cụ B chết, cuối năm 1984, anh H lại tiếp tục xây 01 nhà 02 gian mái ngói để sử dụng, ông Đ không đồng ý và xảy ra tranh chấp. Tháng 12/1984, bà L lấy chồng nhưng vợ chồng bà L vẫn tiếp tục S sống và sử dụng 03 gian nhà trên, vợ chồng ông Đ tiếp tục sử dụng 03 gian nhà dưới mà cụ T2, cụ B để lại tại thôn Hồi Xuân, xã S, huyện K, thành phố H.
Năm 1985, do vẫn tranh chấp với anh H N ông Đ có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đồ S chia di sản thừa kế của cụ T2, cụ B để lại. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 06/PT-DS ngày 17/5/1986 của Tòa án nhân dân thành phố H đã quyết định: Bà L được sở hữu toàn bộ tài sản trên đất gồm:
01 nhà trên 03 gian xây gạch, mái ngói; 01 nhà dưới 03 gian xây gạch; mái ngói; 01 sân gạch; 01 bể nước; 01 chuồng lợn; 01 giếng nước; 01 nhà tắm; 02 cóng; 01 vại, 03 mâm đồng; 01 bàn thờ; 01 bộ tràng kỷ; 01 bàn nhỏ; 01 tủ cá nhân; 02 giường ba xà; và cây cối trên đất gồm: 09 cây mít to, nhỏ; 02 cây trứng gà, 01 cây quéo; 05 cây cau; 19 cây xoan to, nhỏ; 02 cây dừa; 02 cây bưởi. Bà L phải trả cho bà D2, bà V, bà L, bà N, bà Nh, ông Đ, anh S (con trai bà Nh1) số tiền 29.341 (hai mươi chín nghìn ba trăm bốn mươi mốt) đồng và trả sang cho bà L1 29.000đ (hai mươi chín nghìn) đồng; về đất đai, chính Q địa phương giải quyết theo thẩm Q. Sau bản án phúc thẩm, bà L đã trả tiền cho các hàng thừa kế và bà L1 theo đúng như bản án số 06/PT-DS ngày 17/5/1986 của Tòa án nhân dân thành phố H. Tuy nhiên, bà L cũng như các hàng thừa kế đều chưa đến Cơ quan chính Q để làm tục về đất. Sau khi nhận tiền, vợ chồng ông Đ chuyển về thôn Vam Trên, xã Vinh Quang, huyện T S sống. Tại nhà - đất nêu trên, chỉ còn vợ chồng bà L S sống và sử dụng. Vợ chồng anh H, chị Thảnh vẫn tiếp tục S sống tại 02 gian nhà mái ngói do vợ chồng anh H xây dựng, không chịu chuyển đi. Khoảng 4-5 năm sau, do điều kiện công tác phải chuyển về nội thành H S sống, bà L đã nhờ vợ chồng bà D2, ông N trông nom toàn bộ khối tài sản trên. Không hiểu lý do gì, bà D2 đã cho vợ chồng anh H sang ở, sử dụng toàn bộ tài sản trên đất của bà L theo bản án số 06/1986. Năm 2004, các nguyên đơn mới phát hiện sự việc năm 1993, vợ chồng bà D2 đã bán 02 gian nhà mái ngói trên diện tích đất hơn 573m2 (trong tổng 1086m2) mà vợ chồng anh H sử dụng trước đó cho ông Nguyễn Văn Đ (người cùng thôn) (ông Đ đã chết khoảng năm 2017). Sau khi biết việc, các nguyên đơn có về hỏi vợ chồng bà D2 lý do bán đất của tổ tiên và toàn bộ tài sản trên đất của bà L, thì bà D2 trả lời: “Do đất không có người ở N tôi bán”. Vì vậy các nguyên đơn đã đề nghị UBND xã S giải quyết, quá trình giải quyết, các nguyên đơn mới được xem giấy chuyển nhượng nhà đất giữa bà D2, ông N với ông Đ cùng ký ngày 18/12/1993, có xác nhận của UBND xã S. Sau khi chuyển nhượng, ông Đ đã chia một nửa diện tích đất đã mua của vợ chồng bà D2 cho vợ chồng anh Nguyễn Văn Ph, chị Trần Thị H3 (là con trai, con dâu) và chị Nguyễn Thị Chi, anh Nguyễn Văn D (con gái, con rể) xây dựng nhà sử dụng. Ngày 14/11/2006, UBND xã S hòa giải, ông N đã nhận: “Toàn bộ sự việc là lỗi của gia đình tôi, mong chị em bỏ qua”. Tuy nhận lỗi như vậy nhưng vợ chồng ông N, bà D2 vẫn cho vợ chồng con trai Trần Văn H phá 03 gian nhà trên để xây mới lại 01 nhà 03 gian cấp bốn, mái ngói; sửa 03 gian nhà dưới và sử dụng toàn bộ tài sản còn lại trên đất mà Bản án phúc thẩm số 06 đã giao cho bà L.
Năm 2007, bà L đã khởi kiện, yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà D2, ông N và ông Đ, đồng thời yêu cầu trả lại đất cho bà L. Qua nhiều lần, nhiều cấp xét xử kéo dài đến nay chưa kết thúc. Nay các nguyên đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện K giải quyết:
- Yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng Q sử dụng đất giữa bà Bùi Thị D2 và chồng là ông Trần Văn N với ông Nguyễn Văn Đ lập ngày 18/12/1993 và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu.
- Yêu cầu gia đình ông N bồi thường thiệt hại toàn bộ tài sản trên diện tích đất đã bị phá dỡ theo Bản án số 06/PT-DS ngày 17/5/1986 của Tòa án nhân dân thành phố H đã giao cho bà Bùi Thị L sở hữu.
- Chia di sản thừa kế 1086,0m2 đất (đo thực tế 1.110,0m2) tại thôn Hồi Xuân, xã S, huyện K, thành phố H của cụ Bùi Hữu T2 (đã chết năm 1981) và cụ Nguyễn Thị B (đã chết năm 1984) theo quy định của pháp luật và chia bằng hiện vật. Buộc vợ chồng ông H, vợ chồng ông D, vợ chồng ông Ph phải tự tháo dỡ toàn bộ tài sản trên đất.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bà L xin rút yêu cầu bồi thường thiệt hại toàn bộ tài sản đã bị phá dỡ theo Bản án dân sự phúc thẩm số 06 PT/DS ngày 17/5/1986 của Tòa án nhân dân thành phố H. Các nguyên đơn chỉ còn lại yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng Q sử dụng đất và Chia di sản thừa kế.
Bị đơn Trần Văn N khai: Thống nhất với lời trình bày của các nguyên đơn về mối quan hệ gia đình và nguồn gốc đất tranh chấp là của cụ T2, cụ B để lại. Năm 1980, bố mẹ vợ ông là cụ T2, cụ B gọi vợ chồng ông vào và nói cho ông H (con trai ông) diện tích đất từ cây chay này đến cây chay kia (không rõ diện tích cụ thể) để ông H trông nom đất đai, nhà cửa cho 2 cụ. Năm 1981, cụ T2 chết, không để lại di chúc. Năm 1982, vợ chồng ông xây dựng trước cho ông H 01 móng nhà 02 gian trên diện tích đất 2 cụ cho ông H. Năm 1983, cụ B chết, không để lại di chúc. Năm 1984, ông H đi bộ đội về kết hôn với bà Thảnh, vợ chồng ông H đã xây dựng 01 nhà 02 gian, mái ngói trên nền móng do vợ chồng ông đã xây dựng từ năm 1981 để ăn ở, S hoạt và trông nom, thờ cúng các cụ. Năm 1986, sau khi có bản án phân chia di sản thừa kế của Tòa án nhân dân thành phố H, trong đó đất giao cho Ch Q địa phương giải quyết, toàn bộ tài sản trên đất được giải quyết giao cho bà L, bà L có trách nhiệm trả tiền cho các hàng thừa kế nhưng thời điểm đó, bà L còn đi học, không có tiền để trả N vợ chồng ông đứng ra trả tiền cho các hàng thừa kế để được sở hữu toàn bộ tài sản trên đất. Khi đó mọi người đều ký đồng ý nhận tiền vào giấy viết tay do ông quản lý. Năm 2006, bà L về mượn giấy viết tay của ông và nói mượn để làm bìa đỏ cho vợ chồng ông H, sau khi mượn được thì bà L đã tự ý hủy giấy viết tay này. Sau khi được sử dụng toàn bộ tài sản trên diện tích đất còn lại của 2 cụ thì vợ chồng ông đã cho vợ chồng ông H chuyển sang ăn ở tại 01 nhà 03 gian mái ngói trên phần đất cụ T2, cụ B để lại để thờ cúng, hương khói cho 2 cụ. Còn 01 nhà 02 gian, mái ngói trên diện tích 2 cụ cho ông H thì để không, ông H cùng vợ chồng ông qua lại, trông nom. Năm 1993, vợ chồng ông bán 01 nhà 02 gian mái ngói trên toàn bộ diện tích đất 2 cụ tặng cho ông H từ năm 1980 cho ông Đ, việc mua bán có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã S. Năm 1998, do 01 nhà 03 gian của 2 cụ để lại đã xuống cấp, vợ chồng ông H đã phá đi để xây dựng 01 nhà 03 gian, mái bằng cùng công trình phụ, được sự đồng ý của bà L và mọi người trong gia đình. Vợ chồng ông H ăn ở, sử dụng, thờ cúng các cụ từ năm 1984 đến nay, hàng năm, bà L cùng mọi người vẫn về cúng giỗ nhưng không ai có ý kiến gì, không xảy ra tranh chấp gì. Nay bà L cùng các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng Q sử dụng đất và tài sản giữa vợ chồng ông với ông Đ; chia di sản thừa kế là 1089m2 (diện tích thực tế là 1.110,0m2) của cụ T2, cụ B cho các hàng thừa kế theo quy định pháp luật là không có cơ sở, ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
Người kế thừa Q, nghĩa vụ tố tụng của bà D2 đồng thời là người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Văn H và vợ là bà Lê Thị Thảnh (người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan) thống nhất trình bày: Thống nhất với lời trình bày của các nguyên đơn về mối quan hệ gia đình và thống nhất với các nguyên đơn về nguồn gốc đất tranh chấp là của cụ T2, cụ B để lại, thống nhất với lời khai của ông N (bố đẻ ông). Ngoài ra ông khai: Vợ chồng ông ăn ở, sử dụng, thờ cúng các cụ từ năm 1984 đến nay; hàng năm, bà L cùng mọi người vẫn về cúng giỗ nhưng không ai có ý kiến gì, không xảy ra tranh chấp gì. Nay bà L cùng các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng Q sử dụng đất và tài sản giữa vợ chồng bà D2, ông N với ông Đ; chia di sản thừa kế là 1089m2 (diện tích thực tế là 1.110,0m2) của cụ T2, cụ B cho các hàng thừa kế theo quy định pháp luật là không đúng, vợ chồng ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn, đề nghị công nhận sự việc năm 1980 cụ T2, cụ B tặng cho ông diện tích đất từ cây chay này đến cây chay kia (thực tế là toàn bộ diện tích đất gia đình ông Ph, gia đình ông D đang quản lý, sử dụng bây giờ). Tuy hai cụ cho ông đất nhưng bố mẹ ông đã ký giấy bán nhà, đất cho ông Đ, vợ chồng ông đồng ý, không ý kiến gì. Toàn bộ tài sản bố mẹ ông đã bán cho ông Đ từ năm 1993 đến nay, các con ông Đ là vợ chồng anh D, vợ chồng anh Ph đang quản lý sử dụng thì có toàn Q sử dụng, sở hữu; vợ chồng ông không còn Q lợi gì liên quan đối với khối tài sản này. Vợ chồng ông không yêu cầu giải quyết hợp đồng mua bán tài sản giữa ông N, bà D2 với ông Đ.
Người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Đồng Thị T trình bày thống nội dung, yêu cầu nhất với các nguyên đơn, ngoài ra chị trình bày: Mẹ chị là Bùi Thị Nh1 (con gái của cụ T2, cụ B), mẹ chị kết hôn với ông Đồng Công Cuộc S được anh Đồng Văn S và chị. Năm 1980 mẹ chị chết (chết trước hai cụ). Nay chị đề nghị được hưởng di sản thừa kế của hai cụ để lại theo quy định của pháp luật và hưởng bằng hiện vật.
Những người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn Ph và vợ là bà Trần Thị H3 thống nhất trình bày: Năm 1993, ông Đ (bố đẻ ông) có mua của vợ chồng bà D2, ông N diện tích đất 573m2 cùng tài sản cây cối trên đất với giá tiền 7.500.000 đồng, việc mua bán chuyển nhượng được Ủy ban nhân dân xã S xác nhận. Ngay sau khi mua nhà, đất của vợ chồng bà D2; ông Đ đã cho vợ chồng ông và vợ chồng chị Chi, anh D mỗi người ½ diện tích đất. Vợ chồng ông ở đó luôn và xây tường bao ngăn cách giữa gia đình ông với đất của gia đình cụ T2 (đang do vợ chồng ông H quản lý, sử dụng. Năm 2002 vợ chồng ông phá nhà cũ của vợ chồng ông H xây dựng để xây dựng nhà ở, công trình như hiện nay, ngay sau đó vợ chồng chị Chi, anh D phá công trình phụ cũ của vợ chồng ông H xây dựng trước đó để xây dựng nhà ở, công trình như hiện nay. Trong thời gian từ năm 1993 vợ chồng ông ăn ở, xây dựng công trình, sau đó vợ chồng anh D cũng xây dựng nhà ở, công trình, các thành viên trong gia đình cụ T2 đều biết, không ai ý kiến ngăn cản gì. Nay bà L và các đồng nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng Q sử dụng đất và tài sản giữa ông Đ với vợ chồng bà D2, ông N thì vợ chồng ông không đồng ý. Vợ chồng ông không yêu cầu giải quyết hợp đồng mua bán tài sản giữa ông N, bà D2 với ông Đ mà đề nghị Tòa án công nhận toàn bộ diện tích đất mà ông Đ đã mua của vợ chồng bà D2 và cho vợ chồng ông và vợ chồng anh D quản lý sử dụng như hiện nay.
Những người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn D và vợ là bà Nguyễn Thị Chi trình bày thống nhất như nội dung, yêu cầu của vợ chồng ông Ph.
Những người kế thừa Q, nghĩa vụ tố tụng của bà D2 là ông Trần Văn S, bà Trần Thị H4, anh Trần Văn Q khai phù hợp với lời khai của Trần Văn N và không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của đồng nguyên đơn, không đồng ý hủy hợp đồng mua bán nhà, đất giữa ông N, bà D2 với ông Đ, vì hai cụ đã cho ông H đất từ năm 1980 N thuộc Q quản lý, sử dụng của ông H, tuy nhiên ông N, bà D2 (bố mẹ đẻ ông H) đã bán cho ông Đ từ năm 1993 đến nay và các con ông Đ đã xây dựng nhà ở ổn định, không có tranh chấp, ông H cũng không ý kiến gì về việc bố mẹ đã bán nhà, đất cho ông Đ. Khi mua bán có chính Q địa phương xác nhận, việc mua bán là hoàn toàn hợp pháp, vì vậy toàn bộ diện tích đất hiện nay đang do vợ chồng ông D, vợ chồng ông Ph quản lý, sử dụng là thuộc Q của vợ chồng ông D, vợ chồng ông Ph, gia đình ông không còn Q lợi gì liên quan N các nguyên đơn không còn Q yêu cầu chia thừa kế đối với diện tích đất này. Trước đây ông đã đại diện cho bố mẹ đến gặp và trao đổi với các dì để giữ tình cảm trong gia đình. Hiện nay các dì đều đã có nhà cửa ổn định. Nếu các nguyên đơn muốn lấy đất làm nhà thờ thì gia đình ông đồng ý nhưng đất còn rộng, có thể cắt phần đất ở phía trước hoặc phía sau nhà ông H để xây dựng nhà thờ, không nhất thiết phải lấy phần đất gia đình ông H đang ăn ở ổn định trên đất từ nhiều năm nay để làm nơi thờ cúng.
Quan điểm của UBND xã S xác định, việc ký xác nhận vào đơn mua bán tài sản lập ngày 18/12/1993 giữa ông N, bà D2 với ông Đ là không đúng thẩm Q, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Đối với diện tích đất mà gia đình ông H, gia đình ông D, gia đình ông Ph xây dựng công trình trên diện tích đất mương cũ (nay là hành lang ngõ xóm), yêu cầu 03 gia đình phải tháo dỡ công trình trên đất để trả lại 24,0m2 đất cho UBND xã S quản lý theo thẩm Q.
Với nội dung nêu trên tại Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2022/DS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Thuỵ, thành phố H xử:
1. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu của nguyên đơn Bùi Thị L về việc rút yêu cầu đòi lại tài sản đã bị phá dỡ đối với bị đơn.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đồng nguyên đơn về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng Q sử dụng đất giữa ông Trần Văn N, bà Bùi Thị D2 với ông Nguyễn Văn Đ.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của đồng nguyên đơn về yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Bùi Hữu T2 và cụ Phạm Thị B, chia diện tích đất 595,6m2 tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H. Trừ ngõ đi chung 77,9 m2, còn lại bà Bùi Thị V; bà Bùi Thị L; bà Bùi Thị Nh; bà Bùi Thị N; ông Bùi Hữu Đ; bà Bùi Thị L, mỗi người được hưởng 57,52 m2; ông Trần Văn H và vợ là bà Lê Thị Thảnh được hưởng 57,52 m2, ông H được cộng thêm 8,217 m2 xuất của ông Trần Văn N nhường Q, 8,217 m2 xuất của ông Trần Đ S nhường Q, 8,217 m2 xuất của bà Trần Thị H4 nhường Q, 8,217 m2 xuất của anh Trần Văn Q nhường Q và 8,217 m2 xuất của ông H được hưởng. Tổng cộng ông H, bà Thảnh được hưởng 98,605 m2 ; ông Trần Văn H1 được hưởng 8,217 m2; bà Trần Thị H được hưởng 8,217 m2 ;
anh Đồng Văn S được hưởng 28,76 m2; chị Đồng Thị T được hưởng 28,76 m2.
4. Công nhận sự tự nguyện của ông Trần Văn N, ông Trần Đ S, bà Trần Thị H4, anh Trần Văn Q đều nhường phần của mình được hưởng cho ông Trần Văn H được toàn Q sử dụng, không yêu cầu ông H thanh toán trả giá trị chênh lệch tài sản. Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa các đương sự nêu trên với ông Trần Văn H về việc ông H tự chịu trách nhiệm thanh toán (kể cả Q lợi được hưởng cũng như nghĩa vụ thanh toán) về giá trị tài sản, chi phí tố tụng và án phí dân sự sơ thẩm.
5. Phân chia hiện vật cụ thể:
Diện tích ngõ đi chung là 77,9 m2 tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H, bao gồm các mốc 31, 30, 29, 28, 27, 26, 25, 7a, 7, 8, 9, 10a, 31 (có sơ đồ kèm theo).
Giao cho bà Bùi Thị V quản lý, sử dụng 60,7m2 đất (trong đó 57,52 m2 đất được chia) tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 32, 33, 30, 31, 32 (có sơ đồ kèm theo). Bà Bùi Thị V phải trả cho anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T giá trị 3,18 m2 đất thành tiền 22.260.000 đồng, cụ thể trả cho anh Đồng Văn S 11.130.000 (mười một triệu một trăm ba mươi nghìn) đồng, trả cho chị Đồng Thị T 11.130.000 (mười một triệu một trăm ba mươi nghìn) đồng.
Giao cho bà Bùi Thị L quản lý, sử dụng 60,2m2 đất (trong đó 57,52 m2 đất được chia) tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 1a, 2a, 33, 32, 1a (có sơ đồ kèm theo). Bà Bùi Thị L phải trả cho anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T giá trị 2,68 m2 đất thành tiền 18.760.000 đồng, cụ thể trả cho anh Đồng Văn S 9.380.000đ (chín triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng), trả cho chị Đồng Thị T 9.380.000đ (chín triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng).
Giao cho ông Trần Văn H và vợ là bà Lê Thị Thảnh quản lý, sử dụng 143,2m2 đất tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 2a, 2, 3, 4a, 28, 29, 30, 33, 2a (có sơ đồ kèm theo) và sở hữu tài sản trên đất gồm 01 nhà chính cấp 4; 02 gian diện tích 68,6 m2; khu phụ diện tích 32, m2; nhà tắm + nhà vệ S diện tích 6,7m2; 27,9m2 sân gạch; 11,3m2 lán tôn. Trong diện tích đất trên, ông H, bà Thảnh được chia 57,52m2; ông H được chia 8,217m2 và nhận Q từ ông N, ông S, bà H4, anh Q nhường 32,868 m2; 8,217m2 của ông H1 được chia và 8,217m2 của bà H được chia; 14,08m2 của anh S được chia, 14,08m2 của chị T được chia. Ông Trần Văn H phải trả cho ông Trần Văn H1 57.519.000đ (năm mươi bẩy triệu năm trăm mười chín nghìn đồng), trả cho bà Trần Thị H 57.519.000 (năm mươi bẩy triệu năm trăm mười chín nghìn) đồng, trả cho anh Đồng Văn S 98.560.000 (chín mươi tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn) đồng, trả cho chị Đồng Thị T 98.560,000 (chín mươi tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn) đồng.
Giao cho bà Bùi Thị Nh quản lý, sử dụng 68,6m2 đất (trong đó 57,52m2 đất được chia) tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H và sở hữu tài sản trên đất gồm 01 nhà ở 25,4 m2 trị giá 43.164.694 đồng (làm tròn 43.165.000 đồng), 30,3 m2 sân trị giá 4.794.063 đồng (làm tròn 4.794.000 đồng); vị trí, kích thước bao gồm các mốc 4a, 4, 27, 28, 40b (có sơ đồ kèm theo). Bà Bùi Thị Nh phải trả cho anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T giá trị 11,08 m2 đất thành tiền 77.560.000 đồng; cụ thể trả cho anh Đồng Văn S 38.780.000 (ba mươi tám triệu bẩy trăm tám mươi nghìn) đồng, trả cho chị Đồng Thị T 38.780.000 (ba mươi tám triệu bẩy trăm tám mươi nghìn) đồng và phải trả cho ông Trần Văn H và vợ là bà Lê Thị Thảnh 47.959.000 (bốn mươi bẩy triệu chín trăm năm mươi chín nghìn) đồng.
Giao cho bà Bùi Thị N quản lý, sử dụng 60,4m2 đất (trong đó diện tích đất được chia 57,52m2) tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 4, 5, 5a, 26, 27, 4 (có sơ đồ kèm theo). Bà Bùi Thị N phải trả cho anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T giá trị 2,88m2 đất thành tiền 20.160.000 đồng; cụ thể trả cho anh Đồng Văn S 10.080.000 (mười triệu không trăm tám mươi nghìn) đồng, trả cho chị Đồng Thị T 10.080.000 (mười triệu không trăm tám mươi nghìn) đồng.
Giao cho ông Bùi Hữu Đ (có bà Đặng Thị L1 đại diện) quản lý, sử dụng 60,6m2 đất (trong đó diện tích đất được chia 57,52m2) tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước xác định bởi các mốc 5a, 5b, 25, 26, 5a (có sơ đồ kèm theo). Ông Bùi Hữu Đ (có bà Đặng Thị L1 đại diện) phải trả cho anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T giá trị 3,08 m2 đất thành tiền 21.560.000 đồng; cụ thể trả cho anh Đồng Văn S 10.780.000 (mười triệu bẩy trăm tám mươi nghìn) đồng, trả cho chị Đồng Thị T 10.780.000đ (mười triệu bẩy trăm tám mươi nghìn đồng).
Giao cho bà Bùi Thị L quản lý, sử dụng 63,9m2 đất (trong đó diện tích đất được chia 57,52 m2) tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 5b, 6, 7a, 25, 5b (có sơ đồ kèm theo). Bà Bùi Thị L phải trả cho anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T giá trị 6,38 m2 đất thành tiền 44.660.000 đồng; cụ thể trả cho anh Đồng Văn S 22.330.000 (hai mươi hai triệu ba trăm ba mươi nghìn) đồng, trả cho chị Đồng Thị T 22.330.000 (hai mươi hai triệu ba trăm ba mươi nghìn) đồng.
Tổng số tiền anh Đồng Văn S được hưởng 201.040.000 đồng, chị Đồng Thị T được hưởng 201.040.000 đồng.
6. Ông Nguyễn Văn D và vợ là bà Nguyễn Thị Chi được quản lý, sử dụng 237,4m2 đất và sở hữu toàn bộ tài sản trên đất, tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 10a, 9, 8, 7, 15, 14, 13, 12, 11a, 10a (có sơ đồ kèm theo) 7. Ông Nguyễn Văn Ph và vợ là bà Trần Thị H3 được quản lý, sử dụng 277,0m2 đất và sở hữu toàn bộ tài sản trên đất, tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 11a, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24a, 11a (có sơ đồ kèm theo).
8. Buộc vợ chồng ông Trần Văn H phải tháo dỡ công trình trên 12,3m2 đất (bao gồm các mốc 1,1a,10a,10,1); vợ chồng ông Nguyễn Văn D phải tháo dỡ công trình trên 4,9m2 đất (bao gồm các mốc 10, 10a, 11a, 11, 10); vợ chồng ông Nguyễn Văn Ph phải tháo dỡ công trình trên 6,8m2 đất (bao gồm các mốc 11, 11a, 24a, 24, 11) giáp ngõ xóm (có sơ đồ kèm theo) để trả lại cho UBND xã S quản lý theo thẩm Q. Ngoài ra vợ chồng ông H phải tháo dỡ 11,4m2 lán tôn ở vị trí đất giao cho bà Nh; một đoạn tường xây và 1,5m2 lán tôn ở vị trí đất giao cho bà N; một đoạn tường bao ở vị trí ngõ đi chung, một đoạn tường xây và 7,2 m2 lán tôn ở vị trí ngõ đi chung, đồng thời di chuyển, tháo dỡ các cây cối trên đất giao cho các nguyên đơn và ngõ đi chung.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và nghĩa vụ thi hành án và Q kháng cáo của đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/12/2022, các đồng nguyên đơn bà Bùi Thị V, Bùi Thị L, Bùi Thị Nh, Bùi Thị N, Đặng Thị L1, Bùi Thị L và người có Q lợi và nghĩa vụ liên quan chị Đồng Thị T kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2022/DS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Thuỵ, thành phố H.
Ngày 05/12/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Thuỵ, thành phố H kháng nghị sửa Bản án sơ thẩm theo hướng Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng Q sử dụng đất giữa bà D2, ông N và ông Đ là vô hiệu. Đề nghị chia di sản thừa kế của ông T2, bà B tổng số diện tích đất là 1.110,0m2.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các đồng nguyên đơn bà Bùi Thị V, Bùi Thị L, Bùi Thị Nh, Bùi Thị N, Đặng Thị L1, Bùi Thị L; người có Q lợi và nghĩa vụ liên quan chị Đồng Thị T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung quyết định kháng nghị.
Bà Bùi Thị L và người bảo về Q và lợi ích hợp pháp của bà L trình bày lý do kháng cáo: Diện tích đất bà vợ chồng bà D2 ông N chuyển nhượng cho ông Đ nguồn gốc là của cụ T2 và cụ B, khi còn sống các cụ chưa cho ai, khi chết các cụ không để lại di chúc. Bị đơn vợ chồng bà D2 và ông N khai trước khi chết cụ T2 đã cho anh H con trai bà D2 là không đúng, bà L không trực tiếp nghe cụ T2 nói cho anh H đất mà chỉ được nghe lời bà D2 nói lại, diện tích đất đó vẫn là của cụ T2 và cụ B, do vậy bà D2 ông N chuyển nhượng cho ông Đ là trái quy định pháp luật. Đề nghị Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng Q sử dụng đất giữa vợ chồng bà D2 ông N với ông Đ là vô hiệu và giả quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu theo quy định pháp luật. Chia di sản thừa kế 1086,0 m2 đất (đo thực tế 1.110,0m2) tại thôn Hồi Xuân, xã S, huyện K, thành phố H của cụ Bùi Hữu T2 và cụ Nguyễn Thị B theo quy định của pháp luật và chia bằng hiện vật.
Các đồng nguyên đơn bà Bùi Thị V, Bùi Thị L, Bùi Thị Nh, Bùi Thị N, Đặng Thị L1 và người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan chị Đồng Thị T giữ nguyên quan điểm đã trình bày tại cấp sơ thẩm và thống nhất trình bày lý do kháng cáo như bà L đã trình bày. Đề nghị Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng Q sử dụng đất giữa vợ chồng bà D2 ông N với ông Đ là vô hiệu và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu theo quy định pháp luật. Chia di sản thừa kế 1086,0 m2 đất (đo thực tế 1.110,0m2) tại thôn Hồi Xuân, xã S, huyện K, thành phố H của cụ Bùi Hữu T2 và cụ Nguyễn Thị B theo quy định của pháp luật và chia bằng hiện vật.
Ông Trần Văn H, bà Lê Thị Thảnh, ông Trần Văn Q là người kế thừa Q và nghĩa vụ tố tụng của ông N bà D2 đồng thời là người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan giữ nguyên quan điểm đã trình bày tại cấp sơ thẩm, tại phiên toà phúc thẩm thống nhất trình bày thêm: Đối với diện tích đất bố mẹ các ông bà là bà D2 ông N đã chuyển nhượng cho ông Đ các ông bà có quan điểm diện tích đất này cụ T2 khi còn sống đã cho ông H đến năm 1993 bố mẹ ông bà đã chuyển nhượng cho ông Đ, các ông bà không có ý kiến gì, nay các đồng nguyên đơn đề nghị Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu các ông bà không đồng ý.
Những người kế thừa Q và nghĩa vụ tố tụng của ông N bà D2 là ông Trần Văn S, bà Trần Thị H4, vắng mặt tại phiên toà, không có văn bản thay đổi quan điểm.
Ông Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị Chi và ông Nguyễn Văn Ph, bà Trần Thị H3 và đại diện Uỷ ban nhân dân xã S là người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà, không có văn bản thay đổi lời khai.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự thực hiện đầy đủ các Q và nghĩa vụ của mình đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Về nội dung:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm:
+ Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện K, thành phố H.
+ Chấp nhận kháng cáo của bà Bùi Thị V, Bùi Thị L, Bùi Thị Nh, Bùi Thị N, Bùi Thị L, Đặng Thị L1 và chị Đồng Thị T.
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 08/2022/DS-ST ngày 21/11/2022 theo hướng: Tuyên bố giao dịch chuyển nhượng Q sử dụng đất ngày 18/12/1993 giữa vợ chồng bà D2 và ông Đ vô hiệu; chia di sản thừa kế đối với Q sử dụng đất của cụ T2, cụ B theo phương thức và kỷ phần theo quy định pháp luật.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Bùi Thị V, Bùi Thị L, Bùi Thị Nh, Bùi Thị N, Bùi Thị L, Đặng Thị L1 và chị Đồng Thị T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm Q giải quyết: Đây là “Tranh chấp về thừa kế tài sản; Yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu; yêu cầu về bồi thường tài sản đã bị phá vỡ” quy định tại , khoản 5, khoản 6 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Di sản thừa kế tại thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm Q giải quyết của Tòa án nhân dân huyện K. Trên cơ sở yêu cầu khởi kiện của đồng nguyên đơn, đã nhiều lần Tòa án các cấp giải quyết, ngày 27/6/2020 Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội ban hành Quyết định giám đốc thẩm số 31/2020/DS-GĐT đã quyết định hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 50/2014/DS-PT ngày 04/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố H và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2014/DS-PT ngày 04/3/2014 của Tòa án nhân dân huyện K, thành phố H. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện K xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Nay Tòa án nhân dân huyện K thụ lý, giải quyết lại vụ án, sau khi thụ lý lại vụ án thì nguyên đơn bà Bùi Thị D2 đã chết N các con của bà D2 là những người kế thừa Q, nghĩa vụ tố tụng của bà D2, trong đó có ông H1 đã S sống ở nước Đ từ năm 1981, bà H đã xuất cảnh sang nước Đài L từ ngày 12/7/2019, anh S là người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan đã xuất cảnh sang Hàn Quốc từ ngày 19/01/2020 chưa trở về. Trong quá trình giải quyết vụ án phúc thẩm, ngày 10/3/2023, bị đơn ông Trần Văn N chết N các con của ông N những người kế thừa Q, nghĩa vụ tố tụng của bị đơn (là bà D2 và ông N). Xác định vụ án có đương sự ở nước ngoài tuy nhiên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện K xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm N thuộc thẩm Q của Tòa án nhân dân huyện K theo điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự là đúng thẩm Q. Bản án có kháng cáo do vậy Toà án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm là đúng thẩm Q.
[2] Về việc giải quyết vắng mặt đương sự tại phiên tòa: Nguyên đơn ông Bùi Văn Đ vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt), những người kế thừa Q và nghĩa vụ tố tụng của ông N và bà D2 là ông Trần Đ S, Trần Thị H4, Trần Thị H vắng mặt, không có lý do nhưng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Những người kế thừa Q, nghĩa vụ tố tụng của bà D2 và ông N là ông Trần Văn H1 đang S sống tại nước Đ không xác định được địa chỉ cụ thể; bà Trần Thị H đang cư trú tại Đài L không xác định được địa chỉ cụ thể, anh Đồng Văn S là người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan đang cư trú tại Hàn Quốc không xác định được địa chỉ cụ thể đã được Tòa án niêm yết văn bản tố tụng hợp lệ. Những người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan: Uỷ ban nhân dân xã S vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị Chi; ông Nguyễn Văn Ph bà Trần Thị H3 vắng mặt không có lý do nhưng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự nêu trên.
[3] Xét kháng cáo của các đương sự và kháng nghị của viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Thuỵ.
- Xét hợp đồng chuyển nhượng Q sử dụng đất giữa ông N bà Dịu với ông Đ. Căn cứ lời khai của các đương sự và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy việc tặng cho tài sản của cụ T2 chỉ được thực hiện bằng miệng, không có văn bản và trên thực tế cũng không xác định được vị trí, cũng như diện tích cụ thể. Do đó không có căn cứ xác định phần diện tích bà D2 được cụ T2 cho. Hơn nữa tại phiên toà đồng nguyên đơn đều khẳng định, việc cụ T2 cho bà D2 một phần diện tích đất là do được nghe lại, các đồng nguyên đơn không được nghe trực tiếp từ cụ T2 nói. Sau khi cụ T2 chết, cụ B đã tuyên bố không cho bà D2 phần diện tích đất nêu trên. Tại phiên toà những nguòi kế thừa Q, nghĩa vụ tố tụng của các bị đơn không đưa ra được chứng cứ nào khác. Như vậy, không có căn cứ xác định phần diện tích đất bà D2 bán cho ông Đ là đã được các cụ T2 cụ B tặng cho ông H (con bà D2, ông N) trước khi chết. Mặc dù bà D2 có Q được hưởng di sản thừa kế của cụ T2, cụ B để lại theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên phần di sản chưa được phân chia, bà D2 chưa được xác lập Q sở hữu tài sản và Q sử dụng đất được hưởng, thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng thì diện tích đất này chưa có GCNQSDĐ, Uỷ ban nhân dân xã S cũng thừa nhận việc xác nhận vào hợp đồng chuyển nhượng là sai. Từ phân tích trên Hội đồng xét xử nhận thấy hợp đồng chuyển nhượng Q sử dụng ngày 18/12/1993 giữa vợ chồng ông N, bà D2 với ông Đ được xác định là vô hiệu toàn bộ do vi phạm điều cấm, bà D2 tự ý định đoạt tài sản không thuộc sở hữu của mình. Như vậy có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của các đương sự và quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Thuỵ.
Do hợp đồng vô hiệu N cần phải xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu theo quy định pháp luật.
Hội đồng xét xử xét bên chuyển nhượng là bà D2 và ông N đã vi phạm điều cấm tự ý định đoạt tài sản không phải thuộc Q sở hữu của mình là có lỗi, bên mua ông Đ không tìm hiểu kỹ Q sử dụng diện tích đất là của ai và khi mua ông Đ biết diện tích đất chưa có giấy chứng nhận Q sử dụng đất nhưng vẫn mua là có lỗi, Hội đồng xét xử xét lỗi của vợ chồng ông N bà D2 là 50%, ông Đ 50%.
Kết quả định giá xác định trị giá diện tích 514,4m2 đất là 3.600.800.000 đồng (514,4m2 x 7.000.000đ = 3.600.800.000 đồng) đây là thiệt hại do giao dịch chuyển nhượng Q sử dụng đất vô hiệu. Như phân tích trên lỗi của các bên là 50/50 do vậy ông Đ phải chịu 1.800.400.000 đồng ông N bà D2 chịu 1.800.400.000 đồng. Theo quy định các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nhưng xét thấy diện tích đất ông Đ nhận chuyển nhượng đã cho các con là vợ chồng ông Ph, vợ chồng ông D, hiện tại đã xây dựng các công trình kiên cố trên đất và sử dụng ổn định thời gian dài N không thể hoàn trả bằng hiện vật được mà buộc ông Đ phải trả bằng giá trị. Ông Đ đã chết nhưng khi còn sống ông đã cho vợ chồng ông D bà Chi 237,4m2 và cho vợ chồng ông Ph bà H3 277m2 do vậy vợ chồng ông D bà Chi và vợ chồng ông Ph bà H3 tiếp tục được quản lý sử dụng và có trách nhiệm trả cho vợ chồng ông N bà D2 số tiền 1.792.900.000 đồng sau khi đã trừ 7.500.000 đồng tiền ông Đ đã trả khi nhận chuyển nhượng đất. Bà D2 và ông N đều đã chết N những người kê thừa Q và nghĩa vụ tố tụng của bà D2 ông N là các ông bà Trần Văn S, Trần Văn H, Trần Văn H5, Trần Văn Q, Trần Thị H4, Trần Thị H được nhận số tiền trên cụ thể: Vợ chồng ông D bà Chi được sử dụng 237,4m2 đất có trách nhiệm trả cho ông S, H, H5, Q, bà H4, bà H mỗi người 137.858.000 đồng (237,4m2x 7.000.000đ – 3.750.000đ: 6 = 137.858.000 đồng); vợ chồng ông Ph bà H3 được sử dụng 277m2 đất có trách nhiệm trả cho ông S, H, H5, Q, bà H4, bà H mỗi người 160.967.000 đồng (277m2x 7.000.000đ – 3.750.000đ: 6 = 160.967.000 đồng).
- Đối với yêu cầu chia di sản của cụ T2 và cụ B:
[4] Về di sản thừa kế: Hội đồng xét xử xét cụ T2 và cụ B quá trình chung sống đã tạo dựng được 1080m2 (đo thực tế 1.110,0m2) tại thôn Hồi Xuân, xã S, huyện K, thành phố H. Như phân tích ở trên thì khi còn sống các cụ chưa định đoạt tặng cho ai, khi chết các cụ không để lại di chúc N có căn cứ xác định di sản của cụ T2 và cụ B để lại là 1080m2 (đo thực tế 1.110,0m2) tại thôn Hồi Xuân, xã S, huyện K, thành phố H, cấp sơ thẩm xác định có 595,6m2 là không đúng. Như vậy có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của các đương sự và quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Thuỵ.
[5] Về diện và hàng thừa kế: Tài liệu trong hồ sơ và các đương sự thống nhất thì cụ T2 và cụ B có 08 người con, gồm bà D2, bà V, bà L, bà Nh1, bà Nh, bà N, ông Đ, bà L. Cụ T2 chết năm 1981, cụ B chết năm 1984, sau khi hai cụ chết thì 07 người con của hai cụ còn sống, chỉ có bà Nh1 chết năm 1980 (chết trước hai cụ). Do vậy di sản của cụ T2, cụ B được chia đều cho 08 xuất theo quy định tại Điều 612, 651, 652, 653 của Bộ luật Dân sự, trong đó bà V, bà L, bà Nh, bà N, ông Đ, bà L mỗi người được hưởng một xuất phần di sản bằng nhau, hai xuất còn lại là xuất của bà D2 và xuất của bà Nh1 nhưng bà D2 chết năm 2019 N xuất của bà D2 chia đều cho chồng và 06 người con của bà D2 là ông N, ông S, ông H1, ông H, bà H4, bà H, anh Q, mỗi người được hưởng phần di sản bằng nhau. Riêng bà Nh1 chết trước hai cụ N hai con của bà Nh1 là anh S, chị T được hưởng thừa kế thế vị phần di sản bằng nhau. Cấp sơ thẩm xác định diện và hàng thừa kế là có căn cứ đúng pháp luật.
[6] Ngày 22/6/2022 Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ và đã được Hội đồng định giá tài sản kết luận. Hiện trạng diện tích đất tranh chấp đang do gia đình ông H, gia đình ông Ph, gia đình ông D quản lý sử dụng, cụ thể:
- Gia đình ông H sử dụng 607,9m2 đất và sở hữu tài sản trên đất gồm:
+ 01 nhà chính cấp 4; 02 gian diện tích 68,6 m2 trị giá 196.949.356 đồng;
+ Khu phụ diện tích 32,1m2 trị giá 39.090.914 đồng;
+ Nhà tắm + nhà vệ S diện tích 6,7m2 trị giá 6.799.244 đồng;
+ 01 nhà ở cấp 4 diện tích 25,4m2 trị giá 43.164.694 đồng;
+ 01 sân gạch diện tích 109,0m2 trị giá 12.357.112 đồng;
+ 01 lán tôn sườn sắt diện tích 22,7m2 trị giá 9.552.047 đồng;
+ 01 nhà kho diện tích 7,5m2 trị giá 5.383.582 đồng;
+ 6,16m tường bao trong sân trị giá 799.197 đồng;
+ 7,35m tường bao, cổng ra vào trị giá 8.498.634 đồng.
+ Cây cối phía trước nhà chính gồm: 01 cây vải đường kính gốc 40cm trị giá 2.200.000 đồng; 01 cây bòng đường kính gốc 10cm trị giá 130.000 đồng; 01 cây bòng đường kính gốc 5cm trị giá 70.000 đồng; 01 cây na đường kính gốc 5cm trị giá 100.000 đồng; 03 cây cau có quả đường kính gốc 13cm trị giá 1.350.000 đồng; 01 cây cau đường kính gốc 15cm trị giá 450.000 đồng.
+ Cây cối phía sau nhà chính gồm: 07 cây cau đường kính gốc 15cm trị giá 3.150.000 đồng; 01 cây na đường kính gốc 5cm trị giá 100.000 đồng; 01 cây mít đường kính gốc 5cm (không quả) trị giá 120.000 đồng.
- Gia đình ông D sử dụng 242,3m2 đất và sở hữu tài sản trên đất, gồm:
+ 01 nhà ở diện tích 51,8m2 trị giá 142.702.473 đồng;
+ 01 nhà kho diện tích 16,0m2 trị giá 16.727.379 đồng;
+ 01 Nhà tắm + nhà vệ S diện tích 6,0m2 trị giá 6.336.487 đồng;
+ 01 chuồng gà cũ diện tích 5,2m2 trị giá 1.413.674 đồng;
+ 01 chuồng chăn nuôi diện tích 2,5m2 trị giá 679.651 đồng;
+ 01 chuồng chăn nuôi diện tích 9,0m2 trị giá 2.446.743 đồng;
+ 01 chuồng chăn nuôi diện tích 10m2 trị giá 2.718.603 đồng;
+ 01 sân gạch phía sau nhà ở diện tích 61,3m2 trị giá 19.646.515 đồng;
+ 01 sân gạch phía trước nhà 34,4m2 trị giá 2.339.916 đồng;
+ 01 lán tôn diện tích 22,0 m2 trị giá 5.554.494 đồng;
+ 01 bể nước thể tích 5,6m3 trị giá 4.351.378 đồng;
+ Tường bao, cổng ra vào trị giá 6.163.127 đồng.
+ Cây cối trên đất gồm: 01 cây vối đường kính gốc 40cm trị giá 500.000 đồng.
- Gia đình ông Ph sử dụng 283,8m2 đất và sở hữu tài sản trên đất, gồm:
+ 01 nhà ở diện tích 49m2 trị giá 134.988.826 đồng;
+ 01 cổng ra vào trị giá 1.357.579 đồng;
+ 01 tường bao trị giá 1.346.702 đồng;
+ 01 sân gạch trước nhà diện tích 49m2 trị giá 4.444.026 đồng;
+ 01 lán tôn diện tích 49m2 trị giá 16.495.164 đồng;
+ 01 chuồng lợn diện tích 3,0m2 trị giá 1.087.441 đồng;
+ 01 nhà tắm + nhà vệ S diện tích 7,0m2 trị giá 14.577.568 đồng;
+ 01 phòng ngủ diện tích 11,2m2 trị giá 1.437.000 đồng;
+ 01 phòng bếp diện tích 19,0m2 trị giá 17.206.000 đồng;
+ 01 lán tôn diện tích 68,0m2 trị giá 22.891.248 đồng;
+ Cây cối trên đất gồm: 01 cây chanh đường kính gốc 5cm trị giá 100.000 đồng;
01 cây khế đường kính gốc 12cm trị giá 170.000 đồng; 01 cây nhãn đường kính gốc 22cm trị giá 750.000 đồng; 01 cây mít đường kính gốc 15cm trị giá 1.200.000 đồng;
02 cây mít đường kính gốc 10cm trị giá 640.000 đồng; 01 cây mít đường kính gốc 5cm trị giá 120.000 đồng; 01 khóm chuối trị giá 200.000 đồng.
Giá trị Q sử dụng đất là 7.000.000 đồng/1m2.
Tổng diện tích đất 03 gia đình đang quản lý, sử dụng là 1.134,0m2 (tăng 54,0m2) so với sổ mục kê năm 1984, được UBND xã S xác định có 24,0m2 là đất mương do xã quản lý, nay là hành lang ngõ xóm (trong đó gia đình ông H 12,3m2; gia đình ông D 4,9m2; gia đình ông Ph 6,8m2). Còn lại 20,0m2 do sai số đo đạc. Diện tích đất 1.110,0m2 đã được các gia đình sử dụng ổn định, không vi phạm quy hoạch, không phải đất lấn chiếm, đủ điều kiện để xem xét cấp giấy chứng nhận Q sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
[7] Xét yêu cầu của các đương sự về yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ T2, cụ B bằng hiện vật: Đối với diện tích 595,6m2 do vợ chồng ông H đang quản lý sử dụng có nhiều diện tích đất trống N chia bằng hiện vật, đối với diện tích 514,4 m2 do vợ chồng ông Ph và vợ chồng ông D đang quản lý sử dụng như phân tích ở trên hiện tại trên đất đã xây dựng nhiều công trình kiên cố và vợ chồng ông Ph, ông D sử dụng ổn định thời gian dài N không thể chia bằng hiện vật được mà chia bằng giá trị là phù hợp với thực tế sử dụng. Hội đồng xét xử xét phần di sản chia bằng hiện vật ông N, ông S, bà H4, anh Q đều tự nguyện nhường phần di sản của mình được hưởng cho ông H và không yêu cầu ông H thanh toán trả giá trị tài sản, ông H thống nhất nhận phần của ông N, ông S, bà H4, anh Q nhường và chịu án phí đối với giá trị tài sản được hưởng. Đây là sự tự nguyện của các đương sự, được chấp nhận, cấp sơ thẩm nhận định là có căn pháp luật. Đối với phần di sản chia bằng giá trị những người kế thừa Q và nghĩa vụ của bà D2 không có mặt đầy đủ tại phiên toà phúc thẩm và không có quan điểm N Toà án giải quyết theo quy định pháp luật. Ngoài ra còn xuất của ông H1, bà H nhưng ông H1, bà H đang ở nước ngoài, không xác định được địa chỉ cụ thể N tạm giao cho ông H quản lý cùng với phần ông H được hưởng và được nhường; anh S đang ở nước ngoài, không xác định được địa chỉ cụ thể N tạm giao cho chị T quản lý cùng với phần chị T được hưởng, theo hướng dẫn tại điểm a khoản 3 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, tuy nhiên cũng cần xem xét đến các tình tiết khác để quyết định cho phù hợp.
[8] Về chia hiện vật cụ thể:
Đối với phần di sản 595,6m2 đất do vợ chồng ông H quản lý, Hội đồng xét xử xét cần xem xét tính công sức cho ông Trần Văn H và vợ là bà Lê Thị Thảnh ở trên đất, quản lý, duy trì tài sản và thờ cúng các cụ từ năm 1986 đến năm 2007 mới xảy ra tranh chấp bằng 01 xuất thừa kế. Như vậy diện tích đất thừa kế 595,6m2 đang do vợ chồng ông H sử dụng được chia đều cho 09 phần, cụ thể 595,6m2: 9 = 66,177m2 (trong đó vợ chồng ông H được hưởng 66,177m2; bà V, bà L, bà Nh, bà N, ông Đ, bà L mỗi người được hưởng 66,177m2; ông N, ông S, ông H1, ông H, bà H4, bà H, anh Q, mỗi người được hưởng 66,177: 7= 9,453m2; anh S, chị T mỗi người được hưởng 66,177: 2 = 33,088m2) nhưng căn cứ quy định tại Điều 4, Điều 5 ban hành kèm theo Quyết định số 1394/2015/QĐ-UBND ngày 25/6/2015 của Ủy ban nhân dân thành phố H “Về việc ban hành quy định về hạn mức công nhận đất ở… và diện tích tách thửa đất ở”; Điều 143 của luật Đất đai năm 2013 thì diện tích đất tách thửa không nhỏ hơn 50,0m2. Đối với các trường hợp khi chia, tách thửa đất mà hình thành đường giao thông sử dụng chung thì đường giao thông sử dụng chung phải có mặt cắt ngang ≥ 1,5 m và diện tích, kích thước thửa đất sử dụng riêng phải đảm bảo đủ từ 50,0m2. Hiện trạng diện tích đất 595,6m2 có cạnh giáp ngõ xóm dài 14,19 mét, nếu theo yêu cầu của các đương sự được hưởng hiện vật mà mỗi người đều được hưởng phần đất có cạnh giáp ngõ xóm, đối cH với diện tích đất mà mỗi người được hưởng, trong đó một số người được hưởng diện tích đất không đảm bảo về diện tích tách thửa (đều nhỏ hơn 50,0m2). Như vậy cần giao diện tích đất của người được hưởng nhỏ hơn 50,0m2 cho các thừa kế khác quản lý sử dụng và những người này sẽ thanh toán trả giá trị tài sản cho người được hưởng theo giá trị Hội đồng định giá tài sản kết luận 7.000.000 đồng/1m2. Trong đó xuất của ông H1, bà H được hưởng nhưng đang ở nước ngoài và không xác định được địa chỉ cụ thể, nếu theo hướng dẫn tại điểm a khoản 3 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì tạm giao cho ông H quản lý cùng với phần ông H được hưởng và được nhường; tuy nhiên diện tích đất ông H1, bà H được hưởng nhỏ hơn 50,0m2 N cần giao cho ông H quản lý, sử dụng và ông H sẽ có trách nhiệm thanh toán trả cho ông H1, bà H theo giá trị 7.000.000 đồng/1m2; diện tích đất anh S được hưởng nhỏ hơn 50,0m2 nhưng anh S đang ở nước ngoài và không xác định được địa chỉ cụ thể N cần giao cho các thừa kế khác quản lý, sử dụng và các thừa kế khác sẽ thanh toán trả cho anh S theo giá trị 7.000.000 đồng/1m2 thì sẽ giải quyết dứt điểm được vụ án. Vì nếu chờ kết quả giải quyết khác khi có yêu cầu thì diện tích đất được chia cho ông H1, bà H, anh S cũng không đảm bảo về diện tích tách thửa. Do đó cần xác định diện tích đất 77,9m2 nằm trong diện tích đất 595,6m2 để làm ngõ đi chung cho các thừa kế theo như quy định tại Quyết định số 1394/2015/QĐ-UBND ngày 25/6/2015 của Ủy ban nhân dân thành phố H như nêu trên. Như vậy 595,6m2 đất – 77,9m2 đất làm ngõ đi chung = 517,7m2 đất để chia cho các thừa kế theo quy định, cụ thể 517,7 m2: 9 = 57,52m2. Như vậy các thừa kế được hưởng, gồm bà V, bà L, bà Nh, bà N, ông Đ, bà L mỗi người được hưởng 57,52m2 đất ; ông H, bà Thảnh được hưởng 57,52m2 đất; ông N, ông S, ông H1, ông H, bà H4, bà H, anh Q mỗi người được hưởng 8,217m2 đất. Tổng cộng vợ chồng ông H được hưởng và nhận Q là 115,04m2. Anh S, chị T mỗi người được hưởng 28,76m2. Do hiện trạng gia đình ông H đang sử dụng công trình kiên cố và công trình phụ trên đất phục vụ đời sống N giao cho vợ chồng ông H sử dụng diện tích đất gần tương ứng với công trình kiên cố trên đất, vợ chồng ông H sẽ có trách nhiệm thanh toán giá trị đất đối với phần vượt quá 115,04m2 được hưởng cho anh S, chị T; các thừa kế khác sẽ có trách nhiệm thanh toán giá trị đất đối với phần được hưởng vượt quá 57,52m2 cho anh S, chị T và thanh toán giá trị tài sản cho vợ chồng ông H đối với tài sản trên đất giao cho người được hưởng theo giá trị mà Hội đồng định giá đã kết luận. Buộc vợ chồng ông H phải tháo dỡ một số công trình không kiên cố và di chuyển cây cối trên đất giao cho các thừa kế khác và ngõ đi chung là phù hợp. Cấp sơ thẩm phân chia là có căn cứ phù hợp với thực tế sử dụng.
Đối với phần di sản do vợ chồng ông Ph và vợ chồng ông D quản lý là 514,4m2 chia bằng giá trị, kết quả định giá xác định giá đất 7.000.000 đồng/m2 như vậy xác định tổng giá trị 514,4m2 là 3.600.800.000 đồng (514,4m2 x 7.000.000 đồng = 3.600.800.000 đồng), do diện tích đất này vợ chồng bà D2 đã chuyển nhượng cho ông Đ từ năm 1993 N không tính công sức của bà D2. Như vậy di sản trị giá 3.600.800.000 đồng được chia đều cho 08 phần, cụ thể 3.600.800.000 đồng: 8 = 450.100.000 đồng. (Trong đó bà V, bà L, bà Nh, bà N, ông Đ, bà L mỗi người được hưởng 450.100.000 đồng; anh S, chị T mỗi người được hưởng 450.100.000 đồng: 2= 225.050.000 đồng; ông S, ông H1, ông H, bà H4, bà H, anh Q, mỗi người được hưởng 450.100.000 đồng: 6= 75.116.000 đồng). Do diện tích đất này bà D2 đã chuyển nhượng cho ông Đ lấy tiền sử dụng cho cá nhân không chia cho các đồng thừa kế N bà D2 phải có trách nhiệm trả lại cho các đồng thừa kế. Nay bà D2 đã chết N những người kế thừa Q, nghĩa vụ tố tụng của bà D2 là ông S, ông H1, ông H, bà H4, bà H, anh Q phải có trách nhiệm trả cho các đồng thừa kế cụ thể: Ông S, ông H1, ông H, bà H4, bà H, anh Q mỗi người phải trả cho bà V 75.116.000 đồng, bà L 75.116.000 đồng, bà Nh 75.116.000 đồng, bà N 75.116.000 đồng, ông Đ 75.116.000 đồng, bà L 75.116.000 đồng, anh S 37.508.000 đồng, chị T 37.508.000 đồng.
[9] Về án phí :
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Các nguyên đơn và người kế thừa Q, nghĩa vụ của bị đơn ông S, ông H là những người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí, N miễn án phí dân sự sơ thẩm cho những người này theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Người kế thừa Q, nghĩa vụ của bị đơn là ông H5, bà H4, ông Q, bà H và người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan chị Đồng Thị T và anh S không thuộc trường hợp được miễn án phí N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với tài sản được hưởng theo quy định tại điểm a khoản 7 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận N nguyên đơn và người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều khoản 2 Điều 148, khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 309, Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ Điều 147; khoản 5, khoản 6 Điều 26; khoản 1 Điều 74; Điều 227;
khoản 1 Điều 228; khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 122; Điều 123; Điều 131; Điều 611, Điều 612, Điều 613, Điều 614, Điều 623, Điều 650, Điều 651, Điều 652, Điều 660, điểm d khoản 1 Điều 688 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 100, Điều 101 của Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 7 Điều 27, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà Bùi Thị V, Bùi Thị L, Bùi Thị Nh, Bùi Thị N, ông Bùi Hữu Đ, Bùi Thị L và người có Q lợi và nghĩa vụ liên quan chị Đồng Thị T. Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Thuỵ, thành phố H. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2022/DS- ST ngày 22 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Thuỵ, thành phố H:
Tuyên xử:
1. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn bà Bùi Thị L về việc yêu cầu đòi bồi thường tài sản đã bị phá dỡ đối với bị đơn.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đồng nguyên đơn về yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng Q sử dụng đất giữa ông Trần Văn N, bà Bùi Thị D2 với ông Nguyễn Văn Đ lập ngày 18/12/1993. Giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu.
Buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn D chị Nguyễn Thị Chi phải trả ông Trần Văn S, ông Trần Văn H, ông Trần Văn H5, ông Trần Văn Q, bà Trần Thị H4 và bà Trần Thị H mỗi người 137.858.000 (một trăm ba mươi bẩy triệu tám trăm năm mươi tám nghìn) đồng.
Buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn Ph bà Trần Thị H3 phải trả ông Trần Văn S, ông Trần Văn H, ông Trần Văn H5, ông Trần Văn Q, bà Trần Thị H4 và bà Trần Thị H mỗi người 160.967.000 (một trăm sáu mươi triệu chín trăm sáu mươi bẩy nghìn) đồng.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của đồng nguyên đơn về yêu cầu chia di sản thừa kế 1110m2 đất của cụ Bùi Hữu T2 và cụ Phạm Thị B tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H. Đối với diện tích 595,6m2 chia bằng hiện vật cụ thể: Trừ ngõ đi chung 77,9m2, còn lại bà Bùi Thị V; bà Bùi Thị L; bà Bùi Thị Nh; bà Bùi Thị N; ông Bùi Hữu Đ; bà Bùi Thị L, mỗi người được hưởng 57,52m2; ông Trần Văn H và vợ là bà Lê Thị Thảnh được hưởng 57,52 m2, ông H được cộng thêm 8,217m2 suất của ông Trần Văn N nhường Q, 8,217m2 suất của ông Trần Đ S nhường Q, 8,217m2 suất của bà Trần Thị H4 nhường Q, 8,217m2 suất của anh Trần Văn Q nhường Q và 8,217m2 suất của ông H được hưởng. Tổng cộng ông H, bà Thảnh được hưởng 98,605m2; ông Trần Văn H1 được hưởng 8,217m2; bà Trần Thị H được hưởng 8,217m2; anh Đồng Văn S được hưởng 28,76m2; chị Đồng Thị T được hưởng 28,76m2.
Đối với diện tích 514,4m2 chia bằng giá trị, tổng giá trị là 3.600.800.000 đồng chia đều cho các đồng thừa kế bà Bùi Thị V; bà Bùi Thị L; bà Bùi Thị Nh; bà Bùi Thị N; ông Bùi Hữu Đ; bà Bùi Thị L, mỗi người được hưởng 450.100.000 đồng, anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T mỗi người được hưởng 225.050.000 đồng; ông S, ông H1, ông H, bà H4, bà H và ông Q, mỗi người được hưởng 75.116.000 đồng.
4. Công nhận sự tự nguyện của ông Trần Văn N, ông Trần Đ S, bà Trần Thị H4, anh Trần Văn Q đều nhường phần của mình được hưởng cho ông Trần Văn H được toàn Q sử dụng, không yêu cầu ông H thanh toán trả giá trị chênh lệch tài sản. Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa các đương sự nêu trên với ông Trần Văn H về việc ông H tự chịu trách nhiệm thanh toán (kể cả Q lợi được hưởng cũng như nghĩa vụ thanh toán) về giá trị tài sản, chi phí tố tụng và án phí dân sự sơ thẩm.
5. Phân chia hiện vật cụ thể:
Diện tích ngõ đi chung là 77,9m2 tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H, bao gồm các mốc 31, 30, 29, 28, 27, 26, 25, 7a, 7, 8, 9, 10a, 31 (có sơ đồ kèm theo).
Giao cho bà Bùi Thị V quản lý, sử dụng 60,7m2 đất (trong đó 57,52m2 đất được chia) tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 32, 33, 30, 31, 32 (có sơ đồ kèm theo). Bà Bùi Thị V phải trả cho anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T giá trị 3,18m2 đất thành tiền 22.260.000 đồng, cụ thể trả cho anh Đồng Văn S 11.130.000 (mười một triệu một trăm ba mươi nghìn) đồng, trả cho chị Đồng Thị T 11.130.000 (mười một triệu một trăm ba mươi nghìn) đồng.
Giao cho bà Bùi Thị L quản lý, sử dụng 60,2m2 đất (trong đó 57,52m2 đất được chia) tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 1a, 2a, 33, 32, 1a (có sơ đồ kèm theo). Bà Bùi Thị L phải trả cho anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T giá trị 2,68m2 đất thành tiền 18.760.000 đồng, cụ thể trả cho anh Đồng Văn S 9.380.000 (chín triệu ba trăm tám mươi nghìn) đồng, trả cho chị Đồng Thị T 9.380.000 (chín triệu ba trăm tám mươi nghìn) đồng.
Giao cho ông Trần Văn H và vợ là bà Lê Thị Thảnh quản lý, sử dụng 143,2m2 đất tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 2a, 2, 3, 4a, 28, 29, 30, 33, 2a (có sơ đồ kèm theo) và sở hữu tài sản trên đất gồm 01 nhà chính cấp 4; 02 gian diện tích 68,6m2; khu phụ diện tích 32,1m2; Nhà tắm + nhà vệ S diện tích 6,7m2; 27,9m2 sân gạch; 11,3 m2 lán tôn. Trong diện tích đất trên, ông H, bà Thảnh được chia 57,52 m2; ông H được chia 8,21 m2 và nhận Q từ ông N, ông S, bà H4, anh Q nhường 32,868m2; 8,217m2 của ông H1 được chia và 8,217m2 của bà H được chia; 14,08m2 của anh S được chia, 14,0 m2 của chị T được chia. Ông Trần Văn H phải trả cho ông Trần Văn H1 57.519.000đ (năm mươi bẩy triệu năm trăm mười chín nghìn đồng), trả cho bà Trần Thị H 57.519.000 (năm mươi bẩy triệu năm trăm mười chín nghìn) đồng, trả cho anh Đồng Văn S 98.560,000đ (chín mươi tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn) đồng, trả cho chị Đồng Thị T 98.560.000 (chín mươi tám triệu năm trăm sáu mươi nghìn) đồng.
Giao cho bà Bùi Thị Nh quản lý, sử dụng 68,6m2 đất (trong đó 57,52 m2 đất được chia) tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H và sở hữu tài sản trên đất gồm 01 nhà ở 25,4 m2 trị giá 43.164.694 đồng (làm tròn 43.165.000 đồng), 30,3 m2 sân trị giá 4.794.063 đồng (làm tròn 4.794.000 đồng); vị trí, kích thước bao gồm các mốc 4a, 4, 27, 28, 40b (có sơ đồ kèm theo). Bà Bùi Thị Nh phải trả cho anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T giá trị 11,08m2 đất thành tiền 77.560.000 đồng; cụ thể trả cho anh Đồng Văn S 38.780.000 (ba mươi tám triệu bẩy trăm tám mươi nghìn) đồng, trả cho chị Đồng Thị T 38.780.000đ (ba mươi tám triệu bẩy trăm tám mươi nghìn) đồng và phải trả cho ông Trần Văn H và vợ là bà Lê Thị Thảnh 47.959.000 (bốn mươi bẩy triệu chín trăm năm mươi chín nghìn) đồng.
Giao cho bà Bùi Thị N quản lý, sử dụng 60,4m2 đất (trong đó diện tích đất được chia 57,52m2) tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 4, 5, 5a, 26, 27, 4 (có sơ đồ kèm theo). Bà Bùi Thị N phải trả cho anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T giá trị 2,88m2 đất thành tiền 20.160.000 đồng; cụ thể trả cho anh Đồng Văn S 10.080.000 (mười triệu không trăm tám mươi nghìn) đồng, trả cho chị Đồng Thị T 10.080.000 (mười triệu không trăm tám mươi nghìn) đồng.
Giao cho ông Bùi Hữu Đ (có bà Đặng Thị L1 đại diện) quản lý, sử dụng 60,6m2 đất (trong đó diện tích đất được chia 57,52m2) tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước xác định bởi các mốc 5a, 5b, 25, 26, 5a (có sơ đồ kèm theo). Ông Bùi Hữu Đ (có bà Đặng Thị L1 đại diện) phải trả cho anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T giá trị 3,08m2 đất thành tiền 21.560.000 đồng; cụ thể trả cho anh Đồng Văn S 10.780.000 (mười triệu bẩy trăm tám mươi nghìn) đồng, trả cho chị Đồng Thị T 10.780.000 (mười triệu bẩy trăm tám mươi nghìn) đồng.
Giao cho bà Bùi Thị L quản lý, sử dụng 63,9m2 đất (trong đó diện tích đất được chia 57,52m2) tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 5b, 6, 7a, 25, 5b (có sơ đồ kèm theo). Bà Bùi Thị L phải trả cho anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T giá trị 6,38 m2 đất thành tiền 44.660.000 đồng; cụ thể trả cho anh Đồng Văn S 22.330.000 (hai mươi hai triệu ba trăm ba mươi nghìn) đồng, trả cho chị Đồng Thị T 22.330.000 (hai mươi hai triệu ba trăm ba mươi nghìn) đồng.
Buộc ông Trần Văn S, ông Trần Văn H1, ông Trần Văn H, bà Trần Thị H4, bà Trần Thị H, ông Trần Văn Q mỗi người phải có trách nhiệm trả cho bà V 75.116.000 đồng, bà L 75.116.000 đồng, bà Nh 75.116.000 đồng, bà N 75.116.000 đồng, ông Đ 75.116.000 đồng, bà L 75.116.000 đồng, anh S 37.508.000 đồng, chị T 37.508.000 đồng.
Tổng số tiền anh Đồng Văn S được hưởng 426.090.000 đồng, chị Đồng Thị T được hưởng 426.090.000 đồng.
6. Ông Nguyễn Văn D và vợ là bà Nguyễn Thị Chi được quản lý, sử dụng 237,4m2 đất và sở hữu toàn bộ tài sản trên đất, tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 10a, 9, 8, 7, 15, 14, 13, 12, 11a, 10a (có sơ đồ kèm theo)
7. Ông Nguyễn Văn Ph và vợ là bà Trần Thị H3 được quản lý, sử dụng 277,0m2 đất và sở hữu toàn bộ tài sản trên đất, tại thửa số 73, tờ bản đồ số 05 thôn Hồi Xuân (nay là thôn 6), xã S, huyện K, thành phố H; vị trí, kích thước bao gồm các mốc 11a, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24a, 11a (có sơ đồ kèm theo).
8. Buộc vợ chồng ông Trần Văn H phải tháo dỡ công trình trên 12,3m2 đất (bao gồm các mốc 1,1a,10a,10,1); vợ chồng ông Nguyễn Văn D phải tháo dỡ công trình trên 4,9 m2 đất (bao gồm các mốc 10, 10a, 11a, 11, 10); vợ chồng ông Nguyễn Văn Ph phải tháo dỡ công trình trên 6,8m2 đất (bao gồm các mốc 11, 11a, 24a, 24, 11) giáp ngõ xóm (có sơ đồ kèm theo) để trả lại cho UBND xã S quản lý theo thẩm Q. Ngoài ra vợ chồng ông H phải tháo dỡ 11,4m2 lán tôn ở vị trí đất giao cho bà Nh; một đoạn tường xây và 1,5m2 lán tôn ở vị trí đất giao cho bà N; một đoạn tường bao ở vị trí ngõ đi chung, một đoạn tường xây và 7,2m2 lán tôn ở vị trí ngõ đi chung, đồng thời di chuyển, tháo dỡ các cây cối trên đất giao cho các nguyên đơn và ngõ đi chung.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án mà người phải thi hành án chưa thi hành số tiền trên thì phải trả lãi suất theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Các đương sự có trách nhiệm đến Cơ quan Nhà nước có thẩm Q làm thủ tục cấp giấy chứng nhận Q sử dụng đất theo nội dung bản án đã tuyên.
9. Về chi phí tố tụng: Các nguyên đơn phải chịu 3.500.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Ông Trần Văn H phải chịu 3.500.000 đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, trong đó các nguyên đơn đã nộp 7.000.000 đồng N buộc Ông Trần Văn H phải trả cho các nguyên đơn 3.500.000 đồng.
10. Về án phí dân sự sơ thẩm: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho bà Bùi Thị V, Bùi Thị L, Bùi Thị Nh, Bùi Thị N, ông Bùi Hữu Đ và bà Bùi Thị L. Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Trần Văn H đối với phần của ông H được hưởng và phần của ông N, ông S nhường Q nhưng ông Trần Văn H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần của anh Q, bà H4 nhường Q và hưởng phần của ông H1, bà H được chia là 11.503.800 đồng. Bà Lê Thị Thảnh phải chịu 10.066.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đồng Văn S và chị Đồng Thị T mỗi người phải nộp 21.043.600 đồng án phí dân sự sơ thẩm, anh S đã nộp 1.093.750 đồng theo biên lai số 0012028 ngày 20/7/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Đồ S, thành phố H và chị T đã nộp 200.000 đồng theo biên lai số 0001843 ngày 13/12/2022 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố H, N anh S còn phải nộp 19.949.850 đồng, chị T còn phải nộp 20.843.600 đồng. Ông Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị Chi mỗi người phải nộp 18.407.250 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Ông Nguyễn Văn Ph và bà Trần Thị H3 mỗi người phải nộp 20.487.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
11. Về án phí dân sự phúc thẩm: Các đồng nguyên đơn và chị người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Đồng Thị T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Trả lại số tiền án phí dân sự sơ thẩm mà các đương sự đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự theo Bản án số 50/2014/DS-PT ngày 04-9-2014 của Tòa án nhân dân thành phố H, cụ thể: Trả lại bà Bùi Thị V 2.187.500 đồng theo biên lai số 0003916 ngày 10/7/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, thành phố H; trả lại bà Bùi Thị L 2.187.500 đồng theo biên lai số 0019083 ngày 03/7/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Đồ S, thành phố H; trả lại bà Bùi Thị Nh 2.187.500 đồng theo biên lai số 0007958 ngày 26/9/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, thành phố H; trả lại bà Bùi Thị N 2.187.500 đồng theo biên lai số 0001669 ngày 28/7/2016 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; trả lại ông Bùi Hữu Đ 2.187.500 đồng theo biên lai số 0004862 ngày 03/7/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp, chia di sản thừa kế số 44/2022/DS-PT
Số hiệu: | 44/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về