Bản án về tranh chấp chia di sản thừa kế số 36/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRUỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 36/2023/DS-ST NGÀY 20/09/2023 VỀ TRANH CHẤP CHIA DI SẢN THỪA KẾ

Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 03/2023/TLST-DS ngày 03/01/2023 về “Tranh chấp về chia di sản thừa kế” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2023/QĐXXST-DS ngày 28/8/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/QĐST-DS ngày 12/9/2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Hoàng Thọ H, sinh năm 1954; địa chỉ: Số A, ngách C, ngõ A, phố B, phường B, quận L, TP Hà Nội; có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp cho nguyên đơn: Ông Lê Văn C và ông Lê Trọng N - Luật sư thuộc Văn phòng L2- thuộc Đoàn L3; địa chỉ: Tầng E, Tòa nhà A H, Cầu G, Hà Nội; có mặt.

- Bị đơn: Ông Hoàng Thọ L, sinh năm 1957; địa chỉ: Số D đường P, khu nhà ở Q, phường G, quận G, TP Hồ Chí Minh; vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Hoàng Thọ N1; sinh năm 1949; địa chỉ: Tổ B, thị trấn X, huyện X, tỉnh Nam Định; có mặt.

2. Bà Hoàng Thanh M, sinh năm 1972; địa chỉ: số A, ngõ B, phố N, phường G, quận B, TP Hà Nội; vắng mặt.

3. Bà Hoàng Thị P, sinh năm 1974; địa chỉ: số A, ngõ B B, phố N, phường G, quận B, TP Hà Nội; vắng mặt.

4. Bà Hoàng Thị H1; địa chỉ: Số A, ngõ B B, phố N, phường G, quận B, TP Hà Nội; vắng mặt.

5. Bà Lê Thị Thu H2, sinh năm 1963; (bà H2 là vợ ông Hoàng Thọ A); địa chỉ: Số D, ngách B, số D, ngõ T, phố T, phường H, quận Đ, Thành phố Hà Nội; có mặt.

6. Anh Hoàng Anh D, sinh năm 1987; địa chỉ: số D, ngách B, ngõ T, phường H, quận Đ, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa nguyên đơn ông Hoàng Thọ L trình bày:

Bố đẻ ông là cụ Hoàng Thọ S mất ngày 12/7/1998 và mẹ ông cụ Bùi Thị R mất ngày 17/11/2011, hai cụ chết không để lại di chúc.

Cụ Hoàng Thọ S và cụ Bùi Thị R sinh được 5 người con đẻ không có con nuôi bao gồm:

1. Hoàng Thọ L1, sinh năm 1946, mất năm 1989.

2. Hoàng Thọ N1, sinh năm 1949 3 Hoàng Thọ H, sinh năm 1957 4. Hoàng Thọ L, sinh năm 1957 5. Hoàng Thọ A, sinh năm 1958; mất năm 2018 Ông Hoàng Thọ L1 có vợ là Cao Thị M1, vợ chồng ông L1, bà M1 có 3 người con đẻ không có con nuôi gồm: Hoàng Thanh M, Hoàng Thị P, Hoàng Thị H1.

Ông Hoàng Thọ A, sinh năm 1958, mất năm 2018 có vợ là Lê Thị Thu H2, ông A và bà H2 có 01 con đẻ không có con nuôi tên là Hoàng Anh D.

Sinh thời bố mẹ ông là cụ S và cụ R có thửa đất 310m2 tọa lạc tổ 6 thị trấn X, huyện X, tỉnh Nam Định, thửa đất này đã được UBND huyện X cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ngày 19/5/1992 số B115288 mang tên Hoàng Thọ S. Trên thửa đất của bố mẹ ông có xây 01 ngôi nhà mái ngói 5 gian từ năm 1973; năm 2007 mẹ ông là Bùi Thị R đã bỏ tiền ra xây dựng từ đường diện tích khoảng 60m2, (phía tây thổ đất), khi thi công chủ yếu là ông Hoàng Thọ N1 giám sát, từ đường xây hết khoảng 60 triệu đồng, ngoài ra các con cũng góp một ít nhưng chủ yếu là tiền của mẹ ông. Phần đất phía Đông còn lại khoảng 200m2, do ông N1 phải nộp thuế phần đất này trong nhiều năm sau khi mẹ ông mất, ông N1 muốn số đất còn lại 200m2 của bố mẹ chia đều cho 5 người con. Năm 2018 anh em đã họp và thống nhất là phần đất này chia 5 người con, ai lấy sử dụng thì quyền của mỗi người, ai để phần đất mà mình được hưởng cho ai là quyền, nếu bán đất của bố mẹ thì chỉ được bán cho anh em trong gia đình chứ không được bán cho người ngoài, anh em đã thống nhất như thế, còn phần đất đã xây dựng từ đường giữ nguyên. Sau khi anh em trong gia đình đã họp bàn thống nhất như trên, sau đó ông L lại quay ra không nhất trí như thế, vì hôm họp anh em không lập biên bản mà chỉ nói bằng miệng thống nhất với nhau. Sau đó anh em đã nhiều lần họp bàn thống nhất chia đất của bố mẹ nhưng ông L không tham gia không nhất trí việc chia đất và gây khó khăn cho anh em với lý do bố mẹ chết không đề lại di chúc nên ông không có quyền tham gia. Do ông L không thiện chí với anh em trong gia đình, vì vậy mà ông phải làm đơn khởi kiện về chia di sản thừa kế của bố mẹ để đảm bảo quyền lợi cho anh em. Toàn bộ các tài sản của bố mẹ ông là nhà, đất hiện nay ông Hoàng Thọ N1 là người trực tiếp quản lý, sau khi mẹ ông qua đời.

Quan điểm của ông là trên phần đất của bố mẹ đã xây dựng từ đường, sau khi đo đạc phần diện tích hiện trạng của từ đường trừ ra, phần diện tích đất còn lại bao nhiêu sẽ chia đều cho các hàng thừa kế theo quy định của pháp luật, đối với căn nhà của bố mẹ ông đã hết khấu hao thì ông không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, đối với từ đường mẹ ông đã bỏ tiền ra xây dựng ông không yêu cầu Tòa án xem xét. Kỷ phần mà ông được nhận là nhận quyền sử dụng đất, nguyện vọng của ông là xin nhận ở phía đông giáp đất ngõ. Sau khi chia mỗi người được hưởng kỷ phần rồi ai để cho ai là quyền của mỗi người và thanh toán như thế nào anh em sẽ thỏa thuận với nhau. Căn cứ vào kết quả đo đạc thực tế diện tích đất của bố mẹ ông là 342m2 đất ở, trong đó đất có nhà từ đường diện tích 102m2. Như vậy diện tích đất còn lại 240m2 là di sản của để chia còn các tài sản là các công trình xây dựng trên thửa đất này đều đã hết khấu hao không còn giá trị trừ từ đường ra. Vì vậy, quan điểm của ông là đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế diện tích đất 240m2 của cụ S và cụ R cho các hàng thừa kế theo quy định của pháp luật.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp của ông Hoàng Thọ H là ông Lê Trọng N trình bày: Cụ Hoàng Thọ S mất ngày 12/7/1998, cụ Bùi Thị R mất ngày 17/11/2011, hai cụ chết không để lại di chúc.

Cụ Hoàng Thọ S và cụ Bùi Thị R sinh được 5 người con đẻ không có con nuôi bao gồm: Hoàng Thọ L, ông L1 mất năm 1989; Hoàng Thọ N1; Hoàng Thọ H; Hoàng Thọ L, Hoàng Thọ A; ông A mất năm 2018 . Ông Hoàng Thọ L1 có vợ là Cao Thị M1, ông L1, bà M1 có 3 người con đẻ không có con nuôi gồm: Hoàng Thanh M, Hoàng Thị P, Hoàng Thị H1 nên bà M, bà H1, bà P là hàng thừa kế thế vị. Ông Hoàng Thọ A, có vợ là Lê Thị Thu H2, ông A và bà H2 có 01 con đẻ không có con nuôi tên là Hoàng Anh D; do vậy bà H2 anh D là người được hưởng kỷ phần của ông Hoàng Thọ A.

Khi cụ Hoàng Thọ S1 và cụ Bùi Thị R còn sống hai cụ có diện tích đất là 310m2 đã được UBND huyện X ngày 19/5/1992 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Hoàng Thọ S. Trên thửa đất này hai cụ có kiến thiết xây dựng các công trình xây dựng, căn cứ vào kết quả đo đạc thực tế thì các công trình xây dựng này đều đã hết khấu không còn giá trị. Năm 2007 cụ Bùi Thị R có xây dựng một từ đường diện tích khoảng 60m2 do cụ R bỏ tiền ra 60 triệu đồng. Năm 2018, sau khi sang cát cho cụ R, anh em trong gia đình đã họp thống nhất để chia di sản của hai cụ S2 anh em đã nhất trí, sau đó ông L không nhất trí, sau đó anh em đã nhiều lần tổ chức họp nhưng ông L không về nên việc chia đất không thành. Để đảm bảo quyền lợi cho các hàng thừa kế nên ông Hoàng Thọ H đã làm đơn khởi kiện chia di sản thừa kế của hai cụ S. Sau khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ việc thì ông L cũng đã có văn bản thể hiện ý kiến là nhất trí chia đất của hai cụ. Như vậy căn cứ vào kết quả đo đạc thực tế diện tích đất 342m2, trong đó đất từ 102m2, ông H cũng như các hàng thừa kế khác có ý kiến là phần đất từ và từ đường tác ra không chia để làm nơi thờ cúng cũng là phù hợp với đạo lý. Diện tích đất còn lại 240m2 chia cho các hàng thừa kế theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào Điều 609, Điều 612, Điều 613, Điều 651, Điều 652 và Điều 660 của Bộ luật Dân sự đề nghị HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện của ông Hoàng Thọ H về chia di sản thừa kế của cụ Hoàng Thọ S và cụ Bùi Thị R diện tích đất 240 m2 cho các hàng thừa kế theo quy định của pháp luật.

*Theo ông Hoàng Thọ L là bị đơn có văn bản ý kiến như sau:

Ông đã nhận được thông báo của Tòa án về việc thụ lý vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế mà nguyên đơn ông Hoàng Thọ H khởi kiện. Trong thông báo nói anh em tranh chấp chia sản thừa kế là không đúng. Thực tế ông chưa thấy anh Hoàng Thọ N1-anh thứ hai (anh cả Hoàng Thọ L1 đã mất), hiện anh lớn nhất của các anh em trong gia đình tổ chức một buổi họp chính thức nào với đầy đủ các thành viên trong gia đình. Ông cũng chưa nhận được văn bản nào thể hiện anh em trong gia đình họp bàn về việc chia di sản. Đất đai là vấn đề phức tạp dẫn đến mất đoàn kết anh em trong gia đình nên ông ý thức được vấn đề này. Bản thân ông đi xa, không quan tâm đến đất đai thừa kế.

Năm 2014 ông N1 vào M chơi với ông và nói chuyện về vấn đề nhà đất của bố mẹ. Ông N1I nói; các ông ấy ý nói anh em ngoài Bắc muốn chia đất của bố mẹ và ông N1 nói đất của cha ông để lại ở thì cứ về mà ở. Sau khi nghe ông N1 thông tin, ông có nói: (Em thì ở M không về quê nữa, đất đai của bố mẹ để lại các anh làm thế nào thì làm, bàn bạc thống nhất, đoàn kết.

Khoảng năm 2020 và năm 2021 ông không nhớ chính xác, ông H có gọi điện cho ông và nói; chia đất của bố mẹ để lại bán lấy một phần để sửa chữa lại nhà tổ, phần còn lại chia đều cho mọi người. Ông nói với ông H là “Hai việc này khác nhau đấy. Nếu các anh chia đất thì chia bán thì các anh cứ làm, còn ông không lấy bán đâu. Nếu anh em cứ chia thì ông sẽ cho cháu nào sinh sống ở đó để sau này hương khói gia tiên và trông coi nhà thờ tổ.

Sau đó, ông N1 vào M chơi với ông, ông có nói với ông N1 rằng, anh H gọi điện cho ông nói các anh bán đất của bố mẹ lấy tiền sửa chữa nhà thờ tổ, phần còn lại chia nhau, ông nói với ông N1; chủ trương ông đồng ý, nhưng đối với ông thì ông không lấy đâu, nếu cứ chia cho ông thì phần đất đó ông để lại cho cháu nào sống ở đó, sau này trông coi nhà thờ tổ và hương khói cho các cụ. Ông N1 bảo ông; “Vậy là được rồi, có gì ông phải viết giấy cho mấy chữ. Ông nói với ông N1 anh về họp và làm thành văn bản gửi cho ông thì ông ký thôi nhưng sau đó ông cũng không thấy ông N1 gửi văn bản cho ông.

Khoảng tháng 3 năm 2022, ông H có gọi điện cho ông đề cập đến việc chia đất một lần nữa và thông báo đã có phương án đề chia đất, nhất trí với ý kiến của chú, ông H có hỏi ông, ông trả lời là đồng ý và ông nói ông H, ông N1 ở nhà hoàn thành các văn bản có ý kiến, chữ ký của các thành viên, còn của ông cho ai, ông sẽ ghi sau. Sau một thời gian có cháu S3 con ông N1, gọi điện cho ông nói: Bố cháu, chú H và cháu đang làm giấy tờ, khi nào hoàn thành xong các văn bản chia đất của ông bà, cháu bay vào M, chú ký cho cháu. Ông nói đồng ý. Tuy nhiên sau đó không thấy cháu S3 gọi điện lại và cũng không có văn bản giấy tờ nào về vấn đề chia di sản thừa kế gửi để ông ký. Sự việc im lặng cho đến ngày 03/01/2023 thì ông nhận được thông báo của Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường. Ông không đồng ý chia di sản thừa kế mà ông H khởi kiện ra Tòa án dẫn đến làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của các đồng thừa kế. Quan điểm của ông là vẫn nhất quán như đã nói với ông N1, ông H là ông đồng ý chia di sản thừa kế của bố mẹ đề lại. Ai lấy thì lấy, ai không lấy cho tặng ai là quyền quyết định của mỗi người nhưng ngày 13/3/2023 ông có đơn trình bày là đề nghị Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường bác đơn khởi kiện của ông H vì sai sự thật.

*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:

- Ông Hoàng Thọ N1 trình bày: Ông Hoàng Thọ H là em trai ông trình bày về bố mẹ quan hệ anh trong gia đình là đúng cũng như thửa đất, ngôi nhà của bố mẹ để lại. Đất của bố mẹ ông đã được UBND huyện X cấp ngày 19/5/1992 cho hộ ông H3 Thọ Sang trong đó đất hai lúa và mạ là tổng 632m2, đất ở tại thửa số 347, tờ bản đồ số 1 diện tích đất ở là 310m2, thửa đất số 372, tờ bản đồ số 1 đất vườn diện tích 325m2. Thửa đất vườn khi bố mẹ ông còn sống đã cho người khác không còn nữa. Đối với đất hai lúa sau khi mẹ ông qua đời năm 2011 không biết ai sử dụng thửa đất hai lúa này ông cũng không tìm hiểu vì anh em trong gia đình không ai có nhu cầu sử dụng, ông không yêu cầu Tòa án xem xét về đất hai lúa khi anh em phân chia di sản thừa kế của bố mẹ. Khi bố ông (cụ Hoàng Thọ S4) mất thì mẹ ông là người quản lý trông coi nhà, đất, sau khi mẹ ông là cụ Bùi Thị R mất năm 2011 thì ông là người trực tiếp quản lý, trông coi vì ông ở gần đó và cũng từ đó đến nay ông là người trực tiếp nộp thuế đất hàng năm cho thửa đất của bố mẹ ông. Ngoài các công trình xây dựng trước đây bố mẹ ông đã xây dựng thì những công trình này đều đã xuống cấp giá trị không còn. Năm 2007 mẹ ông xây dựng từ đường mẹ ông là người trực tiếp bỏ tiền ra là chính, ngoài ra các con có đóng góp một ít, ông là người quản lý trông coi trực tiếp thi công xây dựng từ đường diện tích khoảng 100m2 xây ở phía tây thổ đất nhìn về hướng nam ra đường trục. Khi mẹ ông xây dựng từ đường mẹ con, anh em trong gia đình đều vui vẻ. Mẹ ông sang cát vào năm 2016, thì năm 2018 anh em trong gia đình bàn bạc đề thống nhất chia đất lý do hàng năm ông phải nộp thuế đất này của bố mẹ do vậy ông có nói với anh em là ngoài đất mà đã xây dựng từ đường ra, đất còn lại chia đều cho 5 anh em đề anh em có trách nhiệm nộp thuế đất cho nhà nước, ông cũng không đòi hỏi hơn, khi họp anh em đều nhất trí nhưng không lập biên bản, tất cả anh em đều nhất trí, sau đó ông L quay ra không nhất trí với ý kiến ông đưa ra vì vậy mà anh không thống nhất chia đất được. Nay ông Hoàng Thọ H khởi kiện chia di sản thừa kế diện tích đất 310m2 sau khi trừ phần đất từ đường đi còn lại chia cho các hàng thừa kế ông hoàn toàn nhất trí, đối với tài sản là nhà của bố mẹ ông đã xuống cấp không còn giá trị ông nhất trí với ý kiến của ông H là không xem xét, đối với từ đường mẹ ông đã bỏ tiền ra xây dựng để làm nơi thờ cúng tổ tiên. Căn cứ vào kết quả đo đạc thực tế ngày 21/3/2023 thì diện tích đất là 342m2 đất ở, trong đó đất có từ đường là 102m2, phần đất còn lại 240m2, ông đề nghị Tòa án chia phần đất 240m2 cho các đồng thừa kế theo quy định của pháp luật. Kỷ phần của ông được nhận ông xin nhận là quyền sử dụng đất, ông đề nghị Tòa án giao cho ông phần đất giáp với đất của ông H rồi đến vợ con ông A, các con của ông L1, rồi đến ông L giáp với đất từ đường. Thực tế anh em ông cũng không muốn phải đưa ra Tòa để tranh chấp nhưng để giải quyết dứt điểm tránh tình trạng con cháu sau này lại xảy ra tranh chấp. Đối với số tiền mà ông đã bỏ ra nộp thuế đất cho bố mẹ ông từ năm 2011 đến nay cũng như công sức quản lý trồng coi đất của bố mẹ, ông không có yêu cầu đòi hỏi các hàng thừa kế được hưởng kỷ phần phải thanh toán lại tiền cho ông.

- Bà Lê Thị Thu H2 trình bày; Chồng bà là ông Hoàng Thọ A, sinh năm 1958, mất năm 2018, bà và ông A có 01 con trai tên là Hoàng Anh D, sinh năm 1987; hiện ở cùng với bà, vợ chồng bà không có con nuôi.

Bà nhất trí với lời trình bày của Hoảng Thọ H về bố mẹ chồng cũng như anh em bên nhà chồng bà, bà hoàn toàn nhất trí. Ông Hoàng Thọ H khởi kiện chia di sản thừa kế của cụ Hoàng Thọ S, cụ Bùi Thị R là quyền sử dụng đất đối với ông Hoàng Thọ L bà hoàn toàn nhất trí. Để anh em sau này tránh xảy ra tranh chấp về đất đai của bố mẹ. Kỷ phần mà bà và con trai bà là anh Hoàng Anh D được hưởng bà và con trai bà là anh D xin nhận là quyền sử dụng đất, còn đối với đất hai lúa của hai cụ bà không có ý kiến gì không xem xét. Kỷ phần bà và con trai bà được nhận là quyền sử dụng đất sau này mẹ con bà đề lại cho ai là quyền của mẹ bà con. Đối với đất có từ đường bà đề nghị không chia. Nay bà có ý kiến thay đổi kỷ phần của bà và anh D được hưởng, bà đề nghị chia đôi kỷ phần này ra cho bà và anh D mỗi người là 1/2 phần đất.

Đối anh Hoàng Anh D là con trai bà đã biết Tòa án gửi thông báo thụ lý vụ án nhưng con trai bà là không muốn về Tòa án để làm việc không muốn liên quan đến vụ án, anh D có nói với bà là mẹ về làm việc với Tòa án và quyết định cho cả con luôn vì hai mẹ con cũng chỉ có một kỷ phần.

- Đối với bà Hoàng Thanh M, bà Hoàng Thị P, bà Hoàng Thị H1 Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường đã có giấy báo trực tiếp cho những bà này về Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường để làm việc liên quan đến vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế do những bà này không về làm việc theo giấy báo của Tòa án. Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường đã có quyết định ủy thác thu thập chứng cứ cho Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đề thu thập chứng cứ. Kết quả: Tòa án nhân dân Quận Ba Định đã có giấy báo cho Hoàng Thị Thanh M2, bà Hoàng Thị P, bà Hoàng Thị H1 đúng 14 giờ 30 phút ngày 1/08/2023 có mặt tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội để ghi lời khai trong việc giải quyết vụ án ông Hoàng Thọ H khởi kiện tranh chấp chia di sản thừa kế đối với ông Hoàng Thọ L nhưng rồi bà M2, bà P, bà H1 không đến vắng mặt không có lý do.

*Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản:

- Giá đất ở theo giá trị thị trường là 9.600.000đ/m2.

- Toàn bộ các công trình xây dựng trên đất của hai cụ S đã hết khấu hao không còn giá trị, trừ từ đường ra không định giá.

*Kết quả thu thập tài liệu chứng cứ tại UBND thị trấn.

- Về quan hệ gia đình: Cụ Hoàng Thọ S mất ngày 12/7/1998 cụ Bùi Thị R mất ngày 17/11 /2011.

Cụ Hoàng Thọ S và cụ Bùi Thị R có 5 người con đẻ không có con nuôi bao gồm:

1. Hoàng Thọ L1, sinh năm 1946; đã chết 2. Hoàng Thọ N1, sinh năm 1949;

3 Hoàng Thọ H, sinh năm 1954;

4. Hoàng Thọ L, sinh năm 1957;

5. Hoàng Thọ A, sinh năm 1958 (đã chết) - Về mâu thuẫn anh em trong gia đình: Địa phương cũng không nắm rõ mâu thuẫn giữa các con của cụ S và cụ R do các anh em đều sinh sống ở nơi khác không thường xuyên ở địa phương.

- Về nguồn gốc đất đang tranh chấp:

Thửa đất mà ông Hoàng Thọ H khởi kiện chia di sản thừa kế có nguồn gốc của hai cụ Hoàng Thọ S, cụ Bùi Thị R tọa lạc tại tổ B mới (tổ 6 cũ) thị trấn X, huyện X, tỉnh Nam Định.

Sinh thời cụ S và cụ R có thửa đất này, trên đất có các công trình xây dựng của cụ S và cụ R đã kiến thiết như nhà cấp 4, tường bao, nhà từ đường và một công trình khác như kết quả xem xét thẩm định, định giá ngày 21/3/2023 đều đã hết khấu hao trừ nhà tường ra không xem xét.

Bản đồ địa chính lập năm 1991 tại thửa số 37, tờ bản đồ số 01 mang tên hộ ông S thể hiện diện tích đất 310m2, trong đó đất ở 310m2.

Bản đồ địa chính lập năm 2005 tại thửa đất số 246, tờ bản đồ số 06 mang tên hộ ông S, thể hiện 463,8m2, trong đó đất ở 279,1m2, đất trồng cây lâu năm 184,7m2.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 19/5/1992 UBND huyện X cấp cho hộ ông Hoàng Thọ S tại thửa đất số 372, tờ bản đồ số 1 diện tích đất ở 310m2.

So sánh bản đồ địa chính lập năm 1991 với bản đồ địa chính lập năm 2005 thì diện tích ở bản đồ lập năm 2005 tăng là 153,8m2. Việc tăng diện tích là do sai số khi đo đạc và lập bản đồ.

Kết quả đo đạc thực tế ngày 21/3/2023 diện tích đất ở là 342m2.

So sánh kết quả đo đạc thực tế ngày 21/3/2023 với bản đồ lập năm 1991 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì kết quả đo đạc tăng 32m2 (342m2 - 310m2).

Kết quả đo đạc so sánh với bản đồ lập năm 2005 thì diện tích đo đạc thực tế giảm 121,8m2 (463,8m2-342m2). Diện tích tăng giảm là do sai số khi đo đạc.

- Về việc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước: Khi cụ S và cụ R còn sống là người thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Sau khi hai cụ qua đời thì ông Hoàng Thọ N1 là con trai của hai cụ là người thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.

Quan điểm của địa phương:

Nay ông Hoàng Thọ H khởi kiện chia di sản thừa kế đối với bị đơn ông Hoàng Thọ L, địa phương đề nghị Tòa án tiếp tục hòa giải để anh em trong gia đình đi đến thống nhất giải quyết vụ án, nếu không thống nhất được thì đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường tại phiên tòa phát biểu quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, các đương sự tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn ông Hoàng Thọ H, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Thọ N1, bà Lê Thị Thu H2 đã chấp hành theo quy định của pháp luật. Bị đơn: ông Hoàng Thọ L; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thanh M2, bà Hoàng Thị P, bà Hoàng Thị H1, anh Hoàng Anh D chưa chấp hành theo quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử; Căn cứ vào các Điều 609, 612, 613, 651, 652, 660 của Bộ luật Dân sự của Bộ luật Dân sự: Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Thọ H về chia di sản thừa kế của cụ Hoàng Thọ S, cụ Bùi Thị R. Đề nghị HĐXX chia 5 kỷ phần cho các hàng thừa kế theo quy định của pháp luật, mỗi người được hưởng kỷ phần là 48m2 đất ở.

Về án phí: Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với giá trị tài sản mình được hưởng. Ông Hoàng Thọ H, ông Hoàng Thọ N1, bà Lê Thị Thu H2 là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí, vì vậy đề nghị HĐXX miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông H, ông N1, bà H2. Còn các đương sự khác phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn ông Hoàng Thọ H, người có quyền lợi nghĩa và vụ liên quan ông Hoàng Thọ N1, bà Lê Thị Thu H2 đã chấp hành theo quy định của pháp luật. Bi đơn: ông Hoàng Thọ L; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thanh M2, bà Hoàng Thị P, bà Hoàng Thị H1, anh Hoàng Anh D chưa chấp hành theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng Dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những người là phù hợp.

[2] Về nội dung: Để có cơ sở xem xét chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của ông Hoàng Thọ H về chia di sản thừa kế thì cần xem xét đánh giá một cách khách quan và toàn diện tài liệu chứng cứ, quy định của pháp luật trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử có cơ sở nhận định, đánh giá cụ thể như sau:

[3] Về thời hiệu khởi kiện: Cụ Hoàng Thọ S mất năm 1998, cụ Bùi Thị R mất năm 2011, vì vậy thời hiệu khởi kiện vụ án trong thời hạn theo quy định tại Điều 623 của Bộ luật Dân sự.

[4] Về hàng thừa kế: Cụ Hoàng Thọ S và cụ Bùi Thị R có 5 người con đẻ không có con nuôi gồm: ông Hoàng Thọ L1; ông Hoàng Thọ N1, ông Hoàng Thọ H; ông Hoàng Thọ L; ông Hoàng Thọ A. Ồng Hoàng Thọ L1 có vợ bà Cao Thị M3, ông L1 và bà M3 có 3 người con là Hoàng Thanh M2, Hoàng Thị P, Hoàng Thị H1, ông L1 mất năm 1989 mất trước cụ S và cụ R nên 3 người con của ông L1 là hàng thừa kế thế vị được hưởng di sản theo quy định tại Điều 652 của Bộ luật Dân sự. Ông Hoàng Thọ A có vợ là Lê Thị Thu H2, ông A và bà H2 có 1 người con đẻ là anh Hoàng Anh D, không có con nuôi, ông A mất 2018, mất sau cụ S và cụ R nên bà H2 và anh D là người hưởng kỷ phần của ông A.

[5] Đánh giá về di sản: Sinh thời cụ Hoàng Thọ S và cụ Bùi Thị R có thửa đất số 397, tờ bản đồ số 1 diện tích đất là 310m2 đất ở mang tên hộ ông Hoàng Thọ S đã được UBND huyện X cấp ngày 19/5/1992. Trên thửa đất này có các công trình xây dựng. Căn cứ vào kết quả đo đạc thực tế ngày 21 tháng 03 năm 2023 diện tích đất 342m2 đất ở, trong đó phần đất có từ đường là 102m2, diện tích còn lại 240m2 trên phần đất này có các công trình xây dựng đều đã hết khấu không còn giá trị sử dụng trừ từ đường. Ông Hoàng Thọ H đề nghị Tòa án trừ phần đất từ đường ra diện tích đất còn lại 240m2 là di sản để chia cho các thừa kế.

[6] Theo lời trình bày của ông Hoàng Thọ H; Khi bố mẹ qua đời không để lại di chúc. Khi mẹ ông là cụ R còn sống năm 2007 mẹ ông đã bỏ tiền ra để xây dựng từ đường. Sau khi mẹ ông qua đời, ông Hoàng Thọ N1 là người trực tiếp quản lý trông coi nhà cửa, đất đai và làm nghĩa vụ với nhà nước. Năm 2018 anh em đã họp và thống nhất chia đất đều cho 5 người con, ai lấy là quyền sử dụng của mỗi người, ai để phần đất mà mình được hưởng cho ai là quyền và nếu bán chỉ được bán cho anh em trong gia đình chứ không được bán cho người ngoài, đối với phần đất đã xây dựng từ đường giữ nguyên. Anh em đã họp bàn thống nhất như trên nhưng sau đó ông Hoàng Thọ L lại quay ra không nhất trí như ý kiến anh em đã thống nhất (hôm họp không lập văn bản chỉ nói miệng với nhau). Sau đó anh em có nhiều cuộc họp để thống nhất nhưng ông L không tham gia không nhất trí gây khó khăn cho anh em với lý do bố mẹ mất không để lại di chúc. Do ông L không thiện chí nên ông H đã làm đơn ra Tòa án đề giải quyết.

[7] Ông Hoàng Thọ L thì cho rằng: Cụ Hoàng Thọ S và cụ Bùi Thị R có tài sản nhà, đất. Thực tế ông chưa thấy anh Hoàng Thọ N1-anh thứ hai (anh cả Hoàng Thọ L1 đã mất), hiện anh lớn nhất của các anh em trong gia đình tổ chức một buổi hợp chính thức nào với đầy đủ các thành viên trong gia đình về việc chia đất của bố mẹ. Ông cũng chưa nhận được văn bản nào thể hiện anh em trong gia đình họp bàn về việc chia di sản. Đất đai là vấn đề phức tạp dẫn đến mất đoàn kết anh em trong gia đình nên ông ý thức được vấn đề này. Bản thân ông đi xa, không quan tâm đến đất đai thừa kế. Bản thân ông cũng nhất trí chia đất của bố mẹ nhưng anh em trong gia đình họp lại và có văn bản để các thành viên ký chứ không nhất trí chia di sản thừa kế của bố mẹ như ông H làm đơn khởi kiện đối với ông.

[8] Qua lời trình bày của các đương sự HĐXX đánh giá như sau: Do anh em trong gia đình khi họp gia đình để thống nhất chia đất đai của cụ S và cụ R thì những người là hàng kế của con cụ S, cụ R không có mặt đầy đủ nên không thể lập được văn bản do đó dẫn đến mâu thuẫn anh em trong gia đình. Nay ông H khởi kiện chia di sản thừa kế của cụ S, cụ R đối với ông L, ông L thì không nhất trí việc ông H khởi kiện mà theo hướng anh em họp gia đình để phân chia di sản, ông L thì mong muốn như thế nhưng khi anh em tổ chức họp gia đình thì ông L lại không có mặt thì làm sao mà thành. Để đảm bảo quyền lợi các hàng thừa kế ông H đã khởi kiện chia di sản thừa kế của hai cụ S, cụ R mặc dù ông L không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông H nhưng HĐXX căn cứ vào quy định của pháp luật chấp nhận yêu cầu của ông H.

Cụ S và cụ R có diện tích đất ở là 342m2, trong đó phần đất có từ đường là 102m2, diện tích còn lai 240m2. Quan điểm của ông H và một số người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có ý kiến phần diện tích đất 102m2 có từ đường không chia mà chỉ chia diện tích đất 240m2 còn lại là di sản cho các hàng thừa kế theo quy định của pháp luật là phù hợp.

Như vậy, diện tích đất ở 240 m2 sẽ chia thành 5 kỷ phần, mỗi kỷ phần được diện tích 48 m2 đất ở (48m2 x 9.600.000đ = 460.800.000đ); trong đó bà Lê Thị Thu H2 và anh Hoàng Anh D được hưởng 01 kỷ phần; bà Hoàng Thanh M2, bà Hoàng Thị P, bà Hoàng Thị H1 được hưởng 01 kỷ phần. Trong kỷ phần mà bà H1 và anh D được hưởng 48m2, bà H1 có ý kiến là đề nghị tách chia cho bà H1 và anh D mỗi người là 1/2. Xét thấy nguyện của bà H1 là phù hợp, vì vậy HĐXX sẽ chia kỷ phần này cho bà H1 được hưởng 24m2 đất ở, anh D được hưởng 24m2 đất ở.

Ông Hoàng Thọ N1 có ý kiến: Từ khi cụ R mất đi ông là người quản lý trông coi nhà cửa, đất đai của hai cụ S và làm nghĩa vụ với nhà nước, ông không yêu cầu anh em trong gia đình khi được hưởng di sản của cụ S, cụ R phải thanh toán tiền ông nộp thuế cũng như công sức trông coi, quản lý cho ông, xét thấy yêu cầu của ông N1 là phù hợp nên HĐXX không xem xét.

[9] Từ những phân tích đánh giá lập luận ở trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Thọ H về chia di sản thừa kế của cụ Hoàng Thọ S và cụ Bùi Thị R theo quy định của pháp luật là phù hợp nên được chấp nhận.

[10] Về án phí: Các đương sự được hưởng kỷ phần là di sản nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với giá trị tài sản mà mình được hưởng. Xét ông Hoàng Thọ H, ông Hoàng Thọ N1, bà Lê Thị Thu H2 là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên ông Hoàng Thọ H, ông Hoàng Thọ N1, bà Lê Thị Thu H2 được miễn án phí. Các đương sự khác cũng như ông L là người cao tuổi không có đơn xin miễn án phí nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. (Theo hướng dẫn Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân tối cao V/v thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử) Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điều 609, 612, 613, 651, 652; 660 của Bộ luật Dân sự; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điềm đ khoản 1 Điều 12, điềm a khoản 7 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

2. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Thọ H về chia di sản thừa kế của cụ Hoàng Thọ S và cụ Bùi Thị R.

2.1. Chia cho ông Hoàng Thọ H được quyền sử dụng diện tích đất ở là 48 m2 trị giá 460.800.000đ, tại thửa số 246, tờ bản đồ số 06 lập năm 2005 cùng công trình xây dựng đã hết khấu hao không còn giá trị nằm trên diện tích đất này tại tổ B, thị trấn X, huyện X, tỉnh Nam Định.

2.2. Chia cho ông Hoàng Thọ N1 được quyền sử dụng diện tích đất ở là 48 m2 trị giá 460.800.000d, tại thửa số 246, tờ bản đồ số 06 lập năm 2005 cùng công trình xây dựng đã hết khấu hao không còn giá trị nằm trên diện tích đất này tại tổ B, thị trấn X, huyện X, tỉnh Nam Định.

2.3 Chia bà Lê Thị Thu H2 được quyền sử dụng diện tích đất ở là 24 m2 trị giá 230.400.000đ, tại thửa số 246, tờ bản đồ số 06 lập năm 2005 cùng công trình xây dựng đã hết khấu hao không còn giá trị nằm trên diện tích đất này tại tổ B, thị trấn X, huyện X, tỉnh Nam Định.

2.4 Chia cho anh Hoàng Anh D được quyền sử dụng diện tích đất ở là 24 m2 trị giá 230.400.000đ, tại thửa số 246, tờ bản đồ số 06 lập năm 2005 cùng công trình xây dựng đã hết khấu hao không còn giá trị nằm trên diện tích đất này tại tổ B, thị trấn X, huyện X, tỉnh Nam Định.

2.5 Chia cho bà Hoàng Thanh M2, bà Hoàng Thị Hl, bà Hoàng Thị p được quyền sử dụng diện tích đất ở là 48 m2 trị giá 460.800.000đ, tại thửa số 246, tờ bản đồ số 06 lập năm 2005 cùng công trình xây dựng đã hết khấu hao không còn giá trị nằm trên diện tích đất này tại tổ B, thị trấn X, huyện X, tỉnh Nam Định.

2.6 Chia cho ông Hoàng Thọ L được quyền sử dụng diện tích đất ở là 48 m2 trị giá 460.800.000đ tại thửa số 246, tờ bản đồ số 06 lập năm 2005 cùng công trình xây dựng đã hết khấu hao không còn giá trị nằm trên diện tích đất này tại tổ B, thị trấn X, huyện X, tỉnh Nam Định.

3. Buộc ông Hoàng Thọ N1 có trách nhiệm giao lại diện tích đất và công trình xây dựng nằm trên diện tích trên cho ông Hoàng Thọ H, bà Lê Thị Thu H2, anh Hoàng Anh D, ông Hoàng Thọ L, bà Hoàng Thanh M2, bà Hoàng Thị P, bà Hoàng Thị H1 để sử dụng.

(Về diện tích, ranh giới, độ dài các cạnh của thửa đất được mô tả chi tiết trong sơ đồ kèm theo).

Đương sự có trách nhiệm liên hệ đăng ký quyền sử dụng đất với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quản lý đất đai để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quyết định của bản án.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Hoàng Thọ H, ông Hoàng Thọ N1, bà Lê Thị Thu H2.

Hoàn trả lại cho ông Hoàng Thọ H số tiền tạm ứng án phí đã nộp 28.500.000đ theo biên lai số 0003155 ngày 03 tháng 01 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Xuân Trường.

Ông Hoàng Thọ L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 22.432.000đ.

Anh Hoàng Anh D phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 11.216.000đ.

Bà Hoàng Thanh M2, bà Hoàng Thị P, bà Hoàng Thị H1 phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 22.432.000đ.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp chia di sản thừa kế số 36/2023/DS-ST

Số hiệu:36/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về