Bản án về tranh chấp chia di sản thừa kế số 14/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 14/2023/DS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TRANH CHẤP CHIA DI SẢN THỪA KẾ

Ngày 29 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh D, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:14/2023/TLST- DS ngày 18 tháng 4 năm 2023về tranh chấp chia di sản thừa kế, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2023/QĐXX-ST ngày 04 tháng 9 năm 2023, quyết định hoãn phiên tòa giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1955; Địa chỉ: thôn Cẩm B, xã Ứng H, huyện Ninh G, tỉnh D

- Bị đơn: Bà Vũ Thị L, sinh năm 1969; Địa chỉ: thôn Tân Q, xã Quang K, huyện Tứ K, tỉnh D

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1965; Địa chỉ: thôn Tân Q, xã Quang K, huyện Tứ K, tỉnh D.

2. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1953; địa chỉ: tổ 1, phường Yên Thế, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

3. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1959; địa chỉ: thôn Đoàn X, xã Tân Q, huyện Ninh G, tỉnh D

4. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1972; địa chỉ: thôn Cẩm B, xã Ứng H, huyện Ninh G, tỉnh D

5. Bà Vũ Thị H, sinh năm 1973; địa chỉ trước đây ở thôn Tân Q, xã Quang K, huyện Tứ K, tỉnh D nhưng bà H bỏ nhà đi từ tháng 02/1993 đến nay không biết ở đâu.

(Tại phiên tòa có mặt ông T, bà L, bà N. Vắng mặt bà L, bà T, ông T, bà H).

NỘI DUNG VỤ ÁN

-Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Xuân Ttrình bày và yêu cầu Tòa án giải quyết các nội dung như sau:

Ông T đề nghị: Chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 470, tờ bản đồ số 4, diện tích 310 m2 có địa chỉ tại thôn Tân Q, xã Quang K, huyện Tứ K, tỉnh D được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận QSD đất ngày 10/7/2000 mang tên ông Vũ Văn L và bà Nguyễn Thị N theo di chúc bà N đã lập ngày 22/10/2015 và của ông L theo quy định pháp luật.

Căn cứ chứng minh cho yêu cầu cầu kiện nêu trên nguyên đơn đưa ra:

Ông Vũ Văn L (Tên gọi khác Vũ Hồng L) sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị N sinh năm 1970 kết hôn vào năm 1992, hai ông bà không có con chung. Ông L có bố là cụ Vũ Văn V (tên gọi khác Vũ Hồng T) chết năm 1996, mẹ là cụ Nguyễn Thị C chết năm 2021, có em ruột là bà Vũ Thị L và bà Vũ Thị H. Còn bà N có bố là cụ Nguyễn Văn K chết năm 1974, mẹ là cụ Nguyễn Thị Tươi chết năm 1988, có chị là bà Nguyễn Thị L, anh là ông Nguyễn Xuân T, chị là bà Nguyễn Thị T, chị là bà Nguyễn Thị N, em là ông Nguyễn Văn T. Sau khi kết hôn, ông L và bà N sinh sống cùng cụ V và cụ C trên thửa đất số 470 tờ bản đồ số 4 thuộc thôn Tân Quang xã Quang Khải. Năm 1996, cụ V chết. Năm 2000, vợ chồng bà N ông L được chủ tịch UBND huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông L và bà N. Đến năm 2010, ông L chết không để lại di chúc. Sau khi ông L chết, bà N vẫn sống cùng cụ C, một thời gian sau bà N mắc bệnh ung thư phải điều trị tại Bệnh viên lao phổi D, thời gian bà N điều trị tại bệnh viện chỉ có ông và chị em của bà N trông nom chăm sóc bà N còn phía gia đình ông L chỉ đến thăm hỏi chứ không quan tâm chăm sóc bà N, thậm chí để có tiền điều trị, chi trả viện phí cho bà N ông và vợ còn phải vay tiền theo diện hộ nghèo số tiền 40 triệu đồng. Ngày 30/12/2015 bà N chết. Trước khi chết, bà N lập di chúc với nội dung để lại phần tài sản là QSDĐ của bà (50% diện tích đất và phần thừa kế của bà đối với di sản của ông L để lại) cho ông Nguyễn Xuân T, thời điểm bà N lập di chúc đã nhờ chị Hoàng Thị Kim H1 đánh máy giúp và có sự chứng kiến của ông Phạm Văn H2 là luật sư và bà Lê Thị Tố Ng điều dưỡng trực khoa Ung bướu, ngoài ra còn có xác nhận của lãnh đạo bệnh viện. Sau khi bà N chết, cụ C là người quản lý nhà đất. Đến năm 2021, cụ C chết. Đến nay, do giữa ông và bà Vũ Thị L không thống nhất được việc phân chia di sản thừa kế nên ông T có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế theo di chúc bà N để lại.

- Bị đơn bà Vũ Thị L trình bày: Bố mẹ bà là cụ Vũ Hồng T chết năm 1996 và cụ Nguyễn Thị C chết năm 2021. Cụ T, cụ C có 03 người con là Vũ Hồng L, Vũ Thị L và Vũ Thị H. Trước đây gia đình bà không sinh sống tại thôn Tân Quang, xã Quang Khải mà sinh sống tại T do bố mẹ bà lúc đó làm Công nhân tại Công ty gang thép T. Năm 1980 bố mẹ bà nghỉ hưu mới chuyển về sinh sống tại thôn Tân Quang, xã Quang Khải. Khi về, khi về do không có đất để ở nên phải ở nhờ nhà chú ruột bà là ông Vũ Ngọc Đ khoảng 02 năm thì chuyển ra ở nhờ sân kho của thôn Tân Quang, xã Quang Khải. Năm 1985 thì gia đình xin địa đương cấp đất và được địa phương cấp đất để ở.Năm 1986, bố mẹ bà làm nhà trên đất để ở, gia đình bà sinh sống trên đất, đến năm 1990 bà đi lấy chồng ở cùng thôn và chuyển về sinh sống cùng gia đình chồng, năm 1992 ông L kết hôn với bà Nguyễn Thị N và sinh sống cùng bố mẹ bà, còn bà Vũ Thị H ở cùng bố mẹ đến khoảng năm 1996 thì đi làm ăn xa thi thoảng 01 - 02 năm mới về nhà, hiện nay bà cũng không biết bà H ở đâu nên không cung cấp địa chỉ cho Tòa án được.

Thời điểm xin cấp đất thì bố mẹ bà là người xin, lúc đó ông L có nhà hay không thì bà không nhớ, chỉ nhớ ông L có giai đoạn làm công nhân ở Lạng Sơn. Sau khi kết hôn với bà N đến năm 1999-2000 thì ông L, bà N phá dỡ nhà cũ của bố mẹ để xây nhà mới, khi ông L làm nhà bà còn đến giúp ông L, bà H còn gửi tiền cho ông L làm nhà. Năm 2010 ông L chết, bà N ở cùng với mẹ bà đến năm 2015 bà N chết chỉ còn một mình cụ cậy sinh sống trên đất. Năm 2021 thì cụ cậy chết.

Theo đơn khởi kiện của ông T đề nghị chia di sản thừa kế theo di chúc bà N lập trước khi chết để lại thì bà không đồng ý vì bà xác định diện tích đất hiện đang có tranh chấp là do bố mẹ bà xin của chính quyền địa phương và là của bố mẹ bà chứ không phải của ông L, bà N, bên cạnh đó khi bố mẹ bà còn sống chưa cho đất ông L, bà N nên việc bà N lập di chúc là không hợp pháp vì khi bà N lập di chúc thì cụ C vẫn còn sống nhưng trong di chúc không có nội dung nào thể hiện quyền lợi của cụ C. Bà L đề nghị không chia đất mà để làm nơi thời cúng. Đối với các công trình xây dựng trên đất bà xác định do vợ chồng ông L, bà N làm, ngoài ra còn một số cây chuối do bà trồng.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N trình bày:

Bà là chị gái của bà N và là em ông T, bà nhất trí với ý kiến mà ông T đã trình bày, đối với di chúc bà N lập để lại toàn bộ phần quyền về tài sản trong khối tài sản chung của bà N và ông L cho ông T thì bà và các chị em khác trong gia đình hoàn toàn nhất trí và không có ý kiến cũng như không đòi hỏi quyền lợi gì.

- Biên bản xác minh tại Bệnh viên lao phổi D thể hiện: Ông Tiêu Văn K - Nguyên Trưởng khoa lao, HIV kháng thuốc và Điều dưỡng viên Lê Thị Tố Ng xác định bà Nguyễn Thị N nhập viện điều trị ngày 07/10/2015 tại bệnh viện với chuẩn đoán ung thư phổi giai đoạn 4 (giai đoạn cuối) di căn màng phổi, não, xương suy kiệt. Ông K và bà Ng xác định có chứng kiến việc bà N lập di chúc và ký vào di chúc là hoàn toàn tự nguyện, ông bà có ký vào di chúc để làm chứng, đối với ông K lúc đó ký với tư cách lãnh đạo nên đã đóng dấu của bệnh viện. Ngoài ra ông K, bà Ng còn trình bày việc bà N lập di chúc còn có các bệnh nhân khác cùng phòng với bà N chứng kiến.

- Biên bản xác minh tại UBND xã Quang Khải thể hiện: Cụ Vũ Văn V và cụ Nguyễn Thị C có 03 người con là Vũ Văn L, Vũ Thị H và Vũ Thị L, sau một thời gian đi làm công nhân ở T mới chuyển về sinh sống tại thôn Tân Quang, xã Quang Khải. Khi về gia đình hai cụ chưa có nhà đất để, sau đó xin UBND xã cấp đất cho để ở, ai là người xin cấp thì địa phương không xác định được, chỉ biết sau khi được cấp đất thì làm nhà ở. Năm 1992 ông L kết hôn với bà N và vẫn ở trên đất.

Thời điểm lập bản đồ 299 vào năm 1986, lúc này thửa đất trên không thể hiện đăng ký tên ai, không thể hiện số thửa, chỉ thể hiện hình thể còn lý do vì sao địa phương không nắm được. Theo bản đồ năm 2000 được thể hiện tại tờ bản đồ số 4, thửa đất 470, diện tích 310 m2 đăng ký chủ sử dụng là ông Vũ Văn L, sau đó được cấp giấy chứng nhận QSD đất mang tên ông Vũ Văn L và bà Nguyễn Thị N, ông L bà N sử dụng đất ổn định từ khi được cấp giấy đến nay ổn định, không có tranh chấp. Hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSD đất đối với ông L, bà N hiện địa phương chỉ còn lưu giữ hồ sơ địa chính 299, 2000 và biên bản xác định ranh giới mốc giới.

Qua kiểm tra các tài liệu lưu trữ tại địa phương thể hiện có chỗ là Vũ Văn L, có chỗ là Vũ Hồng L là do sai sót khi ghi chép và cùng là một người. Đối với hiện trạng của thửa đất hiện nay là 321, 7 m2 tăng 11,7 m2 là do sai sót trong quá trình đo đạc và tính toán thủ công. UBND xã đề nghị không đưa UBND xã vào tham gia tố tụng trong vụ án và căn cứ vào các tài liệu mà UBND xã cung cấp để giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

- Biên bản xác minh tại Phòng tài nguyên và môi trường huyện T thể hiện: Qua tra cứu tài liệu lưu trữ tại phòng Tài nguyên và môi trường huyện xác định không còn lưu trữ các tài liệu, hồ sơ liên quan đến việc cấp GCN QSD đất cho ông Vũ Văn L và bà Nguyễn Thị N vì khi cấp giấy dựa trên hồ sơ đề nghị của UBND xã Quang Khải, sau khi cấp giấy thì các tài liệu, hồ sơ liên quan được chuyển về xã để lưu trữ, thời điểm cấp giấy cho ông L, bà N là cấp đồng loạt cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn huyện T. Mặt khác sau khi cấp giấy cho ông L, bà N thì UBND huyện T không nhận được bất kỳ văn bản, khiếu nại nào của những người có liên quan như mẹ, chị em của ông L về việc cấp giấy. Do đó, UBND huyện T xác định việc cấp GCN QSD đất cho ông L, bà N đối với tại thửa đất số 470, tờ bản đồ số 4, diện tích 310 m2 có địa chỉ tại thôn Tân Q, xã Quang K, huyện Tứ K, tỉnh D là đúng quy định của pháp luật. Ông L, bà N sử dụng thửa đất ổn định từ khi được cấp giấy đến khi chết nên đối với yêu cầu khởi kiện của các đương sự đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn ông Nguyễn Xuân T trình bày giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án chia di sản ông L, bà N chết để lại là thửa đất số 470, tờ bản đồ số 4, diện tích 310 m2 có địa chỉ tại thôn Tân Q, xã Quang K, huyện Tứ K, tỉnh D và các tài sản trên đất theo di chúc bà N để lại. Nếu bà L muốn nhận di sản bằng hiện vật và nhận toàn bộ tài sản là nhà đất thì có nghĩa vụ thanh toán trả ông bằng tiền đối với phần ông được hưởng theo di chúc, còn nếu bà L không muốn nhận bằng hiện vật mà muốn hưởng giá trị bằng tiền thì ông đề nghị giao toàn bộ nhà đất cho ông, ông có trách nhiệm thanh toán trả bà L bằng tiền.

- Bị đơn bà Vũ Thị L trình bày trong thời gian bà N điều trị tại bệnh viện thì lúc đó chồng bà mới mất, sức khỏe bà yếu nên không thể đến bệnh viện chăm sóc, thăm hỏi bà N được. Tuy nhiên em bà, con cháu và họ hàng trong gia đình có đến bệnh viện để thăm hỏi bà N. Đối với số tiền ông T trình bày vay để điều trị cho bà N thì bà không biết vay từ khi nào và vay bao nhiêu. Đến nay ông T khởi kiện yêu cầu chia di sản theo di chúc của bà N thì bà không đồng ý, đối với di sản là đất và tài sản trên đất bà đồng ý nhận toàn bộ nhưng không đồng ý thanh toán trả phần ông T được hưởng vì bà chỉ dùng nhà đất làm nơi thờ cúng.

-Đại diện VKSND huyện T tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng đến trước thời điểm HĐXX nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các613, 614, 623, 624, 625, 626, 627, 628, 630, 631, 634, 643, 649, 651, 660, 688 Bộ luật dân sự; Điều 147, 157, 165 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 38 Luật hôn nhân và gia đình; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T. Xác định di sản thừa kế do ông Vũ Văn L và bà Nguyễn Thị N để lại là thửa đất 470 tờ bản đồ số 04 diện tích 321,7m2 có địa chỉ thôn Tân Quang xã Quang Khải huyện T và toàn bộ công trình trên đất, tổng cộng giá trị tài sản là 485.498.000 đồng. Ông L và bà N mỗi người được 1/2 giá trị tài sản tương ứng với số tiền 242.749.000 đồng.

Giao toàn bộ quyền sử dụng thửa đất 470 tờ bản đồ số 04 diện tích 321,7m2 có địa chỉ thôn Tân Quang xã Quang Khải huyện T và toàn bộ công trình trên đất, tổng cộng giá trị tài sản là 485.498.000 đồngđồng là của bà L. Bà L có trách nhiệm thanh toán cho ông T số tiền 364.123.000 đồng, thanh toán cho bà số H tiền 60.687.250 đồng.

Ngoài ra đại diện VKS còn đề nghị về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Ông Nguyễn Xuân T có đơn khởi kiện đề nghị chia di sản thừa kế của ông Vũ Văn L, bà Nguyễn Thị N là thửa đất số 470, tờ bản đồ số 4, diện tích 310 m2 có địa chỉ tại thôn Tân Q, xã Quang K, huyện Tứ K, tỉnh D và các tài sản trên đất theo di chúc bà N để lại, ông L chết năm 2010, bà N chết năm 2015. Theo quy định tại khoản 1 Điều 623 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế là 30 năm đối với bất đông sản kể từ ngày mở thừa kế; ông L, bà N trước khi chết sinh sống trên nhà đất tại thôn Tân Q, xã Quang K, huyện Tứ K, tỉnh D. Do đó, xác định đây là vụ án dân sự về "Tranh chấp chia di sản thừa kế" theo quy định tại khoản 5 Điều 26 BLTTDS và Tòa án nhân dân huyện T thụ lý vụ án giải quyết là đúng về thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS.

[1.2] Đối với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm: Bà Nguyễn Thị L, bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Văn T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bà Vũ Thị H đã được Tòa án triệu tập 02 lần hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án xét xử vắng mặt những người này theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 BLTTDS [1.3] Về áp dụng pháp luật:

Thời điểm ông Vũ Văn L chết năm 2010,bà Nguyễn Thị N lập di chúc và chết năm 2015 là thời điểm Bộ luật dân sự 2015 chưa có hiệu lực. Tuy nhiên về nội dung, hình thức của di chúc cũng như quy định của pháp luật về thừa kế giữa Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015 là như nhau nên trong vụ án này Tòa án áp dụng quy định của Bộ luật dân sự 2015 để giải quyết vụ án.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xác định thời điểm mở thừa kế và hàng thừa kế:

Ông Vũ Văn L và bà Nguyễn Thị N không có con chung, không có con nuôi. Ông L có bố đẻ là cụ Vũ Văn V chết năm 1996, mẹ đẻ là cụ Nguyễn Thị C chết năm 2021 và 02 em gái là bà Vũ Thị L, bà Vũ Thị H. Bà N có bố đẻ là cụ Nguyễn Văn K chết năm 1974, mẹ đẻ là cụ Nguyễn Thị Tươi chết năm 1988 và 05 anh chị em là bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Xuân T, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị N, ông Nguyễn Văn T.

Ông L chết năm 2010 còn bà N chết năm 2015 nên thời điểm mở thừa kế của ông L là năm 2010 và những người được hưởng di sản do ông L để lại là: cụ Nguyễn Thị C, bà Nguyễn Thị N. Năm 2021 cụ C chết nên người được hưởng di sản do cụ C để lại từ việc hưởng di sản của ông L là bà Vũ Thị L và bà Vũ Thị H.

Bà N chết năm 2015 nên thời điểm mở thừa kế của bà N là năm 2015 và những người được hưởng di sản do bà N để lại là: bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Xuân T, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị N, ông Nguyễn Văn T.

[2.2] Về di sản thừa kế: ông L, bà N chết có để lại tài sản là thửa đất số 470, tờ bản đồ số 4, diện tích 321,7 m2 (gồm 300 m2 đất trị giá 1m2 là 1.050.000đ (và 21,7 m2 đất trồng cây lâu năm trị giá 1m2 là 80.000đ) có địa chỉ tại thôn Tân Q, xã Quang K, huyện Tứ K, tỉnh D được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận QSD đất ngày 10/7/2000 mang tên ông Vũ Văn L và bà Nguyễn Thị N và các tài sản trên đất gồm: 01 nhà mái bằng trị giá 131.411.700 đồng; 01 nhà cấp 4 trị giá 14.740.960 đồng; 01 nhà kho trị giá 2.491.640 đồng; 01 bể nước trị giá 8.413.213 đồng, 01 nhà bếp trị giá 1.690.000 đồng, 01 chuồng lợn + nhà vệ sinh trị giá 4.368.950 đồng, 01 bể nước cạnh vườn trị giá 2.691.369 đồng, 01 bể nước sau bể to trị giá 901.415 đồng, 01 nhà tắm trị giá 118.090 đồng, 01 sân trạt bê tông gạch vỡ 1.021.691 đồng, 02 trụ cổng trị giá 300.983 đồng, 02 cánh cổng trị giá 462.000 đồng, 01 đoạn tường rào trị giá 149.976 đồng. Tổng giá trị di sản ông L, bà N để lại là 485.498.000 đồng (Bốn trăm tám mươi năm triệu bốn trăm chín mươi tám nghìn đồng) (làm tròn). Ông L và bà N mỗi người để lại di sản là 242.749.000đ (Hai trăm bốn mươi hai triệu bẩy trăm bốn mươi chín nghìn đồng) [2.3] Xem xét di chúc do bà Nguyễn Thị N lập ngày 22/10/2015 thì thấy: Bà Nguyễn Thị N lập di chúc tại thời điểm bà đang điều trị tại Bệnh viện lao phổi D, trong tình trạng tinh thần hoàn toàn minh mẫn, sáng suốt, tự nguyện. Do không thể tự viết nên đã nhờ bà Hoàng Thị Kim H1 đánh máy lại ý nguyện của bà trước sự chứng kiến của ông Phạm Văn H2, điều dưỡng viên Lê Thị Tố Ng và ông Tiêu Văn K. Hình thức di chúc không trái quy định của luật, nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên được xác định là di chúc hợp pháp và người được hưởng di sản bà N để lại là ông Nguyễn Xuân T.

[2.4] Về cách chia di sản thừa kế và hiện trạng giao đất:

- Tổng giá trị di sản ông L, bà N để lại là 485.498.000 đồng (Bốn trăm tám mươi năm triệu bốn trăm chín mươi tám nghìn đồng) Di sản của ông L là: 242.749.000đ được chia cho hai kỷ phần gồm: cụ C, bà N. Như vậy mỗi kỷ phần được hưởng 121.374.500đ, do cụ C đã chết nên kỷ phần của cụ C do bà L, bà H là người thừa kế theo pháp luật của cụ được hưởng. Do đó bà L, bà H mỗi người được hưởng 60.687.250 đồng.

Di sản của bà N để lại là: 242.749.000đ và phần được hưởng từ di sản ông L để lại là 121.374.500đ. Tổng cộng 364.123.500đ được chia cho ông Nguyễn Xuân T là người thừa kế theo di chúc của bà N được hưởng.

- Xem xét đối với tài sản là nhà đất thì thấy: Hiện nay thửa đất nêu trên dùng để thờ cúng cụ V, cụ C, ông L, bà N không có ai ở trên đất. Bà L, bà N, ông T đều đã có nhà đất và thi thoảng sang thăm nom, dọn dẹp, thắp hương cho những người đã chết. T khi được chính quyền địa phương giao đất thì gia đình bà L đều cùng nhau sinh sống trên thửa đất này nên thấy rằng nguyện vọng của bà L dùng thửa đất này làm nơi thờ cúng là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với đạo lý và truyền thống của người Vệt Nam nên cần giao cho bà L được sở hữu, sử dụng toàn bộ thửa đất để thuận lợi cho việc thờ cúng bố mẹ cũng như vợ chồng anh trai bà. Do bà L được hưởng toàn bộ bằng hiện vật nên bà L có trách nhiệm thanh toán trả giá trị bằng tiền cho ông T và bà H tương ứng với phần mà ông T, bà H được hưởng.

[3] Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo kỷ phần được hưởng. Ông T là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vàokhoản 5 Điều 26; khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39; Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228BLTTDS 2015; các Điều609, 610, 611, 612, 613, 614, 623, 624, 625, 626, 627, 628, 630, 631, 634, 643, 649, 650, 651, 660, 688, 357, 468 Bộ luật dân sự BLDS 2015;Các Điều 33, 38 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về ... án phí và lệ phí Toà án:

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T về việc chia di sản thừa kế của ông Vũ Văn L theo quy định pháp luật và chia di sản thừa kế theo di chúc của bà Nguyễn Thị N lập ngày 22/10/2015.

2. Về di sản thừa kế và kỷ phần thừa kế:

- Xác định di sản thừa kế của ông Vũ Văn Lvà bà Nguyễn Thị N để lại là quyền sử dụng đối với thửa đất số 470, tờ bản đồ số 4, diện tích 321,7 m2 có địa chỉ tại thôn Tân Q, xã Quang K, huyện Tứ K, tỉnh D được UBND huyện T cấp giấy chứng nhận QSD đất ngày 10/7/2000 mang tên ông Vũ Văn L và bà Nguyễn Thị N và các tài sản trên đất. Tổng giá trị tài sản là 485.498.000 đồng (Bốn trăm tám mươi năm triệu bốn trăm chín mươi tám nghìn đồng) (làm tròn). Ông L và bà N mỗi người để lại di sản là 242.749.000đ (Hai trăm bốn mươi hai triệu bẩy trăm bốn mươi chín nghìn đồng) Di sản của ông L là: 242.749.000đ được chia cho hai kỷ phần gồm: cụ C, bà N. Như vậy mỗi kỷ phần được hưởng 121.374.500đ. Do cụ C đã chết nên kỷ phần của cụ C do bà L, bà H là người thừa kế theo pháp luật của cụ được hưởng. Bà L, bà H mỗi người được hưởng 60.687.250 đồng.

Di sản của bà N để lại là: 242.749.000đ và phần được hưởng từ di sản ông L để lại là 121.374.500đ. Tổng cộng 364.123.500đ được chia cho ông Nguyễn Xuân T là người thừa kế theo di chúc của bà N được hưởng.

3. Về hiện trạng giao đất, các tài sản trên đất và trách nhiệm thanh toán:

- Giao cho bà Vũ Thị L được sở hữu, sử dụng thửa đất số 470, tờ bản đồ số 4, diện tích 321,7 m2 có địa chỉ tại thôn Tân Q, xã Quang K, huyện Tứ K, tỉnh D và các tài sản trên đất trị giá 485.498.000 đồng (Bốn trăm tám mươi năm triệu bốn trăm chín mươi tám nghìn đồng) (làm tròn) được giới hạn bởi các điểm A1A2A3A4A5A6A7A8 (có sơ đồ kèm theo) Bà Vũ Thị L có trách nhiệm liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được hướng dẫn và cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.

- Bà Vũ Thị L có trách nhiệm thanh toán cho: thanh toán trả ông Nguyễn Xuân T số tiền 364.123.500đ (Ba trăm sáu mươi tư triệu một trăm hai mươi ba nghìn năm trăm đồng) phần di sản thừa kế ông T được hưởng theo di chúc bà Nguyễn Thị N; thanh toán trả cho bà Vũ Thị H số tiền 60.687.250 đồng (Sáu mươi triệu sáu trăm tám mươi bẩy nghìn hai trăm năm mươi đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án, người phải thi hành án không tự nguyện thi hành những khoản tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Về án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm đối với ông Nguyễn Xuân T.

- Bà Vũ Thị L và bà Vũ Thị H mỗi bà phải chịu 3.034.000đ (làm tròn) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp chia di sản thừa kế số 14/2023/DS-ST

Số hiệu:14/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về