Bản án về tranh chấp chia di sản thừa kế số 13/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 13/2022/DS-PT NGÀY 08/03/2022 VỀ TRANH CHẤP CHIA DI SẢN THỪA KẾ

Ngày 08 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 53/2020/TLPT-DS ngày 12/5/2020 về việc “Tranh chấp chia di sản thừa kế”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 01/2020/DS-ST ngày 26/02/2020 của Toà án nhân dân huyện T bị kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân huyện T kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 74/2021/QĐ-PT ngày 26/11/2021 và Thông báo thời gian mở lại phiên tòa xét xử phúc thẩm số 19/2022/TB-TA ngày 21/02/2022 giữa:

- Nguyên đơn:

1. Bà Lê Thị T, sinh năm 1952; Nơi cư trú: thôn Đ, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên.

2. Bà Lê Thị K, sinh năm 1953; Nơi cư trú: thôn T, xã M, huyện T, tỉnh Phú Yên.

3. Bà Lê Thị M, sinh năm 1959; Nơi cư trú: khu phố P, thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Yên.

Đều có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Bà Phạm Thị N, sinh năm 1953; Nơi cư trú: khu phố P, thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Yên. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. UBND huyện T; Địa chỉ: khu phố P, thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

2. UBND thị trấn P, huyện T; Địa chỉ: khu phố P, thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

3. Anh Bùi Vũ P, sinh năm 1982;

4. Anh Bùi Văn V, sinh năm 1989;

5. Anh Bùi Kim L, sinh năm 1993;

6. Chị Bùi Thị N1, sinh năm 1997;

7. Chị Bùi Thị Ngọc N2, sinh năm 1997;

8. Anh Bùi Ngọc H3, sinh năm 1999;

9. Ông Bùi Thi V1, sinh năm 1964;

10. Bà Bùi Thị Cẩm N3, sinh năm 1972;

11. Ông Bùi Ngọc Thái A, sinh năm 1974;

Đều cư trú: thôn T, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Yên.

12. Ông Bùi Ngọc A1, sinh năm 1966; Nơi cư trú: khu phố B, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Phú Yên.

13. Bà Bùi Thị Kim O, sinh năm 1968; Nơi cư trú: thôn M, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Yên.

14. Bà Bùi Thị Kim D, sinh năm 1970; Nơi cư trú: thôn Đ, xã Đ, huyện S, tỉnh Phú Yên.

15. Bà Bùi Thị Mỹ H4, sinh năm 1978; Nơi cư trú: thôn V, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Yên.

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của những của các ông bà P, V, L, N1, N2, H3, V1, N4, A1, O, D, H4: Ông Bùi Ngọc Thái A. Tất cả đều vắng mặt.

16. Ông Bùi Tấn Q, sinh năm 1963; Nơi cư trú: thôn P, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Yên.

17. Bà Lê Thị H2, sinh năm 1934; Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện SH, tỉnh Phú Yên. Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bà H2: Bà Huỳnh Thị L2, sinh năm 1970; Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện SH, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

18. Chị Lê Thị Kim Y, sinh năm 1974;

19. Anh Lê Sĩ Ng, sinh năm 1976;

20. Chị Lê Thị Nh, sinh năm 1978;

21. Anh Lê Thành T4, sinh năm 1981;

22. Anh Lê Ngọc Ch, sinh năm 1983;

Đều cư trú: khu phố P, thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Yên. Chị Y, chị Nh có mặt, các anh Ng, T4, Ch vắng mặt.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M và bị đơn Phạm Thị N.

- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Phú Yên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện, tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên toà nguyên đơn bà Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M trình bày:

Cha mẹ các nguyên đơn là ông Lê Đ và bà Nguyễn Thị U có 03 người con là Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M. Trước khi kết hôn với cha các nguyên đơn thì bà U có một đời chồng trước là ông Lê T2, bà U và ông T2 có 03 người con: Lê Văn T1 (chết năm 1996, ông T1 có 05 người con: Lê Thị Kim Y, Lê Sĩ Ng, Lê Thị Nh, Lê Thành T4, Lê Ngọc Ch); Lê Thị H (chết năm 2012, bà H có 08 người con: Bùi Ngọc H5 (chết năm 2010, ông H5 có 06 người con: Bùi Ngọc H3, Bùi Văn V, Bùi Vũ P, Bùi Thị N1, Bùi Thị Ngọc N2, Bùi Kim L), Bùi Thi V1, Bùi Thị Cẩm N3, Bùi Ngọc Thái A, Bùi Ngọc A1, Bùi Thị Kim O, Bùi Thị Kim D, Bùi Thị Mỹ H4, Bùi Tấn Q); Lê Thị H2. Lúc sinh thời cha mẹ các đồng nguyên đơn có tạo được tài sản là căn nhà cấp 04 gắn với diện tích đất 1.670m2 (đo đạc thực tế là 1.820,5m2) nguồn gốc đất là của ông Lê Dụng N1 (anh của ông Lê Đ) cho. Trong quá trình sinh sống, ông Đ có trồng một số cây lâu năm. Năm 1969, ông Đ chết không để lại di chúc. Năm 1992, ông Lê Văn T1 tự tháo dỡ ngôi nhà của cha mẹ nguyên đơn để xây lại nhà như hiện nay. Khi nhà nước thực hiện giao đất theo Nghị định 64/CP, ông T1 tự ý kê khai quyền sử dụng đất do cha mẹ nguyên đơn tạo lập để được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2001, bà Nguyễn Thị U chết không để lại di chúc. Nay các đồng nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông T1, bà N đối với đất ở và đất vườn, chia thừa kế phần giá trị đền bù, hỗ trợ đối với phần diện tích đất 1.820,5m2 thuộc thửa 735, tờ bản đồ 12-B, 01 cái thổ kỳ, 01 sân xi măng và cây lâu năm theo bảng kê bồi thường của UBND huyện T (gồm: 01 ngôi nhà cũ, 01 sân xi măng, 01 cây vú sữa, 01 cây xoài, 01 cây dừa, 01 cây khế, 10 cây thầu đâu, o1 cây me, 05 cây trâm, 03 bụi T long, 46 cây tre); đồng thời chia thừa kế giá trị ngôi nhà của cha mẹ nguyên đơn mà ông Lê Văn T1 đã tháo dỡ. Đối với phần đất ruộng và đất màu tại các thửa 511, 509 tờ bản đồ 12-A, thửa 573 tờ bản đồ 12-C, thửa 564 tờ bản đồ 12-B tọa lạc tại khu phố P, thị trấn T, huyện T các nguyên đơn giao cho hộ gia đình bị đơn sử dụng.

Các nguyên đơn không thống nhất theo yêu cầu phản tố của bị đơn yêu cầu trả lại tiền cúng giỗ ông Đ và mai táng, cúng giỗ bà U, tiền thuế và chi phí bảo quản di sản vì khi ông Đ chết, mọi việc lo hậu sự, cúng giỗ đều do bà U và các chị em nguyên đơn lo; Khi bà U chết thì có chị em, con cháu của nguyên đơn lo, việc cúng giỗ do chị em các nguyên đơn tự giỗ ở nhà riêng, không biết đến việc cúng giỗ của bị đơn.

Tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa, bị đơn bà Phạm Thị N trình bày: Về diện và hàng thừa kề thống nhất như nguyên đơn trình bày. Về nguồn gốc đất mà các nguyên đơn đang tranh chấp là của ông N1 cho ông Đ, bà U. Khi nhà nước giao đất theo nghị định 64/CP đã giao đất cho hộ gia đình bà do ông T1 (chồng bà) đại diện đứng tên, gồm 08 nhân khẩu, trong đó có khẩu của bà U. Bà U có hộ khẩu riêng nhưng không biết lý do vì sao không giao đất riêng mà giao chung hộ của bà. Nay các nguyên đơn yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ của bà, chia thừa kế theo giá trị đền bù, hỗ trợ đối với toàn bộ diện tích đất ở và đất vườn tại thửa 735 thì bà không đồng ý. Bà chỉ đồng ý chia thừa kế phần của bà U là giá trị bồi thường ⅛ diện tích đất nói trên. Các tài sản khác mà các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế thì bà không đồng ý chia vì công trình, hạng mục, cây cối theo bảng kê bồi thường đều là tài sản của vợ chồng bà N, ông T1 tạo lập. Đối với ngôi nhà cũ của bà U thì năm 1976 đã sập, vợ chồng bà đã tháo dỡ xây lại nhà mới, năm 1992 tiếp tục sửa chữa nên không còn tài sản của bà U để chia. Ngoài ra, bà có yêu cầu phản tố yêu cầu các nguyên đơn chia thừa kế phải thanh toán lại chi phi cúng giỗ ông Đ, chi phí mai táng, cúng giỗ bà U từ khi chết cho đến nay với số tiền là 130.000.000đồng, tiền nộp thuế nhà đất, công bảo quản di sản số tiền 12.000.000đồng.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị H2 có đơn yêu cầu chia di sản thừa kế của bà Nguyễn Thụ U theo các yêu cầu của nguyên đơn. Bà Huỳnh Thị Loan đại diện cho bà H2 xin vắng mặt nên không có ý kiến về yêu cầu phản tố của bị đơn.

Ông Bùi Tấn Q vắng mặt nên không có lời khai.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Uỷ ban nhân dân thị trấn T trình bày: Trong quá trình thực hiện chính sách đất đai, ông T1 là kê khai đăng ký đại diện cho 08 nhân khẩu gồm vợ chồng ông T1, 05 người con và bà U. Bà U có hộ khẩu riêng nhưng hộ của bị đơn đã được tách ra từ hộ bà U nên ông T1 đứng tên đại diện cho 08 nhân khẩu trong sổ mục kê và sổ địa chính. Khi thực hiện phương án giao đất theo nghị định 64/CP thì giao chung cho 08 nhân khẩu, còn việc phân chia như thế nào do nội bộ gia đình thỏa thuận, bình quân mỗi nhân khẩu nhận 515m2 đất nông nghiệp. Hộ gia đình bị đơn giao được cân đối giao 4.120m2 (8 x 515m2), trong đó đất nông nghiệp là 3.515m2, đất màu 670m2 quy 3 thành 223m2, đất vườn 1.270m2 quy 3 thành 423m2, tổng cộng 4.161m2, T2 41m2 so với quy định. Nay các bên đương sự có tranh chấp đối với thửa đất 735 tờ bản đồ 12-B diện tích 1.670m2, trong đó công nhận chung đất ở 200m2 cho 08 nhân khẩu có nhà ở trên đất, 200m2 đất quy hoạch thổ cư theo Quyết định 315 của UBND tỉnh Phú Yên chuyển giao cho 08 nhân khẩu trong đó tăng thêm 50m2 đất ở, 150m2đất vườn. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Uỷ ban nhân dân huyện T trình bày: Việc cân đối giao đất như ý kiến của UBND thị trấn T đã trình bày. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 200m2 đất ở cho bị đơn theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Việc thực hiện thu hồi đất và bồi thường đúng quy định của pháp luật, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết. Tuy nhiên, phương án bồi thường cho hộ bà Phạm Thị N có giảm 02 hạng mục trong đó có 01 hạng mục là hỗ trợ đất vườn giảm 18.222.000đồng.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 01/2020/DS-ST ngày 26/02/2020 của Toà án nhân dân huyện T đã quyết định:

Áp dụng: Điều 620, 650, 651, 652, 658 của Bộ luật dân sự. Điều 147, 165, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M và yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu chia di sản thừa kế của bà Nguyễn Thị U theo pháp luật.

2.Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Phạm Thị N yêu cầu thanh toán chi phí mai táng cho bà Nguyễn Thị U, tiền nộp thuế và tiền công bảo quản di sản.

3.Xác định di sản thừa kế do bà Nguyễn Thị U để lại là giá trị bồi thường đối với điện tích đất 250m2 đất ở, 196,3m2 đất vườn và 01 cái thổ kỳ có tổng giá trị là 44.347.000đồng, trừ chi phí mai táng cho bà Nguyễn Thị U, tiền nộp thuế quyền sử dụng đất và tiền công bảo quản di sản tổng cộng 20.600.000đồng, còn lại 23.747.000đồng, chia cho 06 kỷ phần, mỗi kỷ phần thừa kế được nhận 3.957.000đồng.

Các bà Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M mỗi người được nhận 3.957.000đồng. Các con cháu bà Lê Thị H: Bùi Ngọc H5, Bùi Thi V1, Bùi Thị Cẩm N3, Bùi Ngọc Thái A, Bùi Ngọc A1 Bùi Thị Kim O, Bùi Thị Kim D, Bùi Thị Mỹ H4, Bùi Tấn Q. Ông Bùi Ngọc H5 (chết năm 2010) có 06 người con: Bùi Ngọc H3, Bùi Văn V, Bùi Vũ P, Bùi Thị N1, Bùi Thị Ngọc N2, Bùi Kim L được nhận chung một kỷ phẩn thừa kế là 3.957.000đồng.

Các con ông Lê Văn T1: Lê Thị Kim Y, Lê Sĩ Ng, Lê Thị Nh, Lê Thành T4, Lê Ngọc Ch được nhận chung một kỷ phần thừa kế là 3.957.000đồng.

Bà Lê Thị H2 được nhận một kỷ phần thừa kế là 3.957.000đồng.

4.Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 390779 cấp ngày 13/3/1995 cho ông Lê Văn T1; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB 743925 cấp ngày 24/8/2010 cho bà Phạm Thị N.

5.Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M và yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu chia di sản thừa kế một ngôi nhà cấp 04, 01 sân xi măng và cây lâu năm theo bảng kê bồi thường của UBND huyện T và tiền hỗ trợ về đất.

6.Đình chỉ xét xử yêu cầu phản tố của bị đơn Phạm Thị N đối với yêu cầu trả lại số tiền cúng giỗ ông Lê Đ, tuần tự và cúng giỗ bà Nguyễn Thị U.

7.Ghi nhận sự tự nguyện của các nguyên đơn giao cho bị đơn Phạm Thị N và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lê Thị Kim Y, Lê Sĩ Ng, Lê Thị Nh, Lê Thành T4, Lê Ngọc Ch tiếp tục sử dụng phần diện tích đất ruộng và đất màu của bà Nguyễn Thị U được giao theo nghị định 64/CP tại các thửa 511, 509 tờ bản đồ 12-A, thửa 573 tờ bản đồ 12-C, thửa 564 tờ bản đồ 12-B tọa lạc tại khu phố P, thị trấn T, huyện T.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí, chi phí định giá tài sản và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 10/03/2020, nguyên đơn Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M và bị đơn Phạm Thị N có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Ngày 11/03/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Phú Yên có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 03/QĐKNPT-VKS-DS kháng nghị đối với bản án số: 01/2020/DS-ST ngày 26/02/2020 của Toà án nhân dân huyện T.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.

- Bị đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố, ý kiến trình bày và yêu cầu kháng cáo.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan giữ nguyên ý kiến trình bày.

- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụán ở giai đoạn phúc thẩm của Thẩm phán, HĐXX và những người tham gia tố tụng làđúng quy định. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 BLTTDS, chấp nhận kháng nghị của VKSND huyện T và miễn án phí cho nguyên đơn, bị đơn, người liên quan Lê Thị H2 là người cao tuổi, sửa Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến các bên đương sự, kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về diện và hàng T2 kế: Các bên đương sự thống nhất cụ Nguyễn Thị U có 06 người con gồm Lê Văn T1, Lê Thị H, Lê Thị H2 (là 03 người con chung với cụ Lê T2) và Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M (là 03 người con chung với cụ Lê Đ). Ông Lê Văn T1 (chết năm 1996, ông T1 có 05 người con: Lê Thị Kim Y, Lê Sĩ Ng, Lê Thị Nh, Lê Thành T4, Lê Ngọc Ch); Lê Thị H (chết năm 2012, bà H có 09 người con: Bùi Ngọc H5(chết năm 2010, ông H5 có 06 người con: Bùi Ngọc H3, Bùi Văn V, Bùi Vũ P, Bùi Thị N1, Bùi Thị Ngọc N2, Bùi Kim L), Bùi Thi V1, Bùi Thị Cẩm N3, Bùi Ngọc Thái A, Bùi Ngọc A1, Bùi Thị Kim O, Bùi Thị Kim D, Bùi Thị Mỹ H4, Bùi Tấn Q).

[2] Xét kháng cáo của các nguyên đơn về chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Thị U:

[2.1] Về di sản quyền sử dụng đất: Lúc còn sống cụ Đ và cụ U có tạo lập một ngôi nhà cấp 04 trên diện tích đất 1.670m2 (thực tế đo đạc hiện nay là 1.820,5m2) thuộc thửa 735, tờ bản đồ 12-B tọa lạc tại khu phố P, thị trấn T, huyện T, nguồn gốc đất được cụ N1 tặng cho cụ Đ, cụ U được các đương sự thừa nhận. Năm 1969, cụ Đ chết, cụ U tiếp tục quản lý, sử dụng khối tài sản nêu trên. Khi thực hiện chính sách đất đai, Nhà nước cân đối giao đất theo Nghị định 64/CP hộ gia đình ông T1, do ông T1 đại diện đứng tên kê khai được giao 200m2 đất ở, 200m2 đất quy hoạch thổ cư, 1.270m2 đất vườn tại thửa số 735 tờ bản đồ 12-B, 670m2 đất màu và 3.515m2 đất ruộng tại các thửa số 511, 509 tờ bản đồ 12-A, thửa số 573 tờ bản đồ 12-C tại khu phố P, thị trấn T, huyện T cho 08 nhân khẩu gồm: Lê Văn T1, Phạm Thị N, Lê Thị Kim Y, Lê Sĩ Ng, Lê Thị Nh, Lê Thành T4, Lê Ngọc Ch và cụ Nguyễn Thị U. Căn cứ vào các tài liệu cung cấp của các cơ quan có thẩm quyền về quản lý đất đai, cũng như bị đơn không có bất cứ tài liệu, chứng cứ nào chứng minh cụ U khi còn sống đã giao đất toàn bộ đất ở và đất vườn cho bị đơn. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định có căn cứ yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ U để lại đối với diện tích đất 1.820,5m2 thuộc thửa 735 của các đồng nguyên đơn, thì cụ U được xác định có khối di sản là diện tích 196,3m2 đất vườn (1.570,5m2 ÷ 8 = 196,3m2) và 250m2 đất ở, cùng 01 cái thổ kỳ. Tất cả được xác định giá theo Quyết định số 2328/QĐ-UBND ngày 29/8/2012 của UBND huyện T về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ công trình khu tái định cư thị trấn T có giá trị như sau: 250m2 đất ở x 100.000đồng = 25.000.000đồng; 196,3m2 đất vườn x 90.000đồng = 17.667.000đồng; 01 cái thổ kỳ có giá 1.680.380đồng. Tổng cộng là 44.347.380đồng. Do đó kháng cáo của các nguyên đơn về việc chia toàn bộ diện tích 1.820,5m2 thuộc thửa 735 (gồm 1.570,m2 đất vườn và 250m2 đất ở) là không có cơ sở chấp nhận. Về phần đất màu và đất ruộng của bà U các nguyên đơn đã thống nhất giao cho bị đơn sử dụng nên cần ghi nhận sự tự nguyện này của các nguyên đơn.

[2.2] Đối với yêu cầu của các nguyên đơn về chia di sản thừa kế là giá trị 01 ngôi nhà cũ, 01 sân xi măng, 01 cây vú sữa, 01 cây xoài, 01 cây dừa, 01 cây khế, 10 cây thầu đâu, 01 cây me, 05 cây trâm, 03 bụi thanh long, 46 cây tre của cụ Đ, cụ U để lại và tiền hỗ trợ về đất cho cụ U của các nguyên đơn nhưng các nguyên đơn không cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu này là có căn cứ nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này là phù hợp với quy định pháp luật.

[2.3]Về yêu cầu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 390779 cấp ngày 13/3/1995 cho ông Lê Văn T1 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB 743925 cấp ngày 24/8/2010 cho bà Phạm Thị N của các nguyên đơn. Tại Quyết định số 2101/QĐ-UBND ngày 13/8/2012 của UBND huyện T về việc thu hồi đất của hộ bà Phạm Thị N để thực hiện công trình khu tái định cư thị trấn T nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu trên là có căn cứ.

[3]Xét kháng cáo của bị đơn về yêu cầu thanh toán lại chi phí mai táng 30.000.000đồng, tiền nộp thuế và tiền công bảo quản di sản 12.000.000đồng. Căn cứ vào thời điểm cụ U chết năm 2001 và số tiền thuế mà bị đã nộp, cùng công sức bảo quản di sản nên Tòa án án cấp sơ thẩm chỉ chấp nhận một phần yêu cầu với số tiền 20.600.000đồng là có sở sở. Do đó, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị đơn.

[4]Sau khi trừ đi chi phí mai táng, tiền nộp thuế và tiền công bảo quản di sản cho bị đơn, số tiền 23.747.000đồng còn lại chia đều cho 06 kỷ phần thừa kế, mỗi kỷ phần được nhận 3.957.000đồng.

[5]Về kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T và một phần kháng cáo của bị đơn về chi phí mai táng; về phần án phí, đề nghị miễn án phí cho các đương sự là người cao tuổi. Xét thấy, đối với chi phí mai táng như đã phân tích ở trên; về án phí các nguyên đơn, bị đơn và bà Lê Thị H2 là người cao tuổi, tại phiên tòa, các nguyên đơn và bị đơn trình bày xin miễn án phí nên đây là tình tiết mới, cần xét miễn án phí cho các đương sự cao tuổi.

[6]Từ những phân tích trên, HĐXX phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của các đồng nguyên đơn và bị đơn, chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, sửa về án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn nguyên đơn Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M và bị đơn Phạm Thị N. Chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, sửa án sơ thẩm về án phí.

Áp dụng các Điều 620, 650, 651, 652, 658 của Bộ luật dân sự. Điều 147, 165, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M và yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu chia di sản thừa kế của bà Nguyễn Thị U theo pháp luật.

2.Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Phạm Thị N yêu cầu thanh toán chi phí mai táng cho bà Nguyễn Thị U, tiền nộp thuế và tiền công bảo quản di sản.

3.Xác định di sản thừa kế do bà Nguyễn Thị U để lại là giá trị bồi thường đối với điện tích đất 250m2 đất ở, 196,3m2 đất vườn và 01 cái thổ kỳ có tổng giá trị là 44.347.000đồng, trừ chi phí mai táng cho bà Nguyễn Thị U, tiền nộp thuế quyền sử dụng đất và tiền công bảo quản di sản tổng cộng 20.600.000đồng, còn lại 23.747.000đồng, chia cho 06 kỷ phần, mỗi kỷ phần thừa kế được nhận 3.957.000đồng.

Các bà Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M mỗi người được nhận 3.957.000đồng. Các con cháu bà Lê Thị H: Bùi Ngọc H5, Bùi Thi V1, Bùi Thị Cẩm N3, Bùi Ngọc Thái A, Bùi Ngọc A1 Bùi Thị Kim O, Bùi Thị Kim D, Bùi Thị Mỹ H4, Bùi Tấn Q. Ông Bùi Ngọc H5 (chết năm 2010) có 06 người con: Bùi Ngọc H3, Bùi Văn V, Bùi Vũ P, Bùi Thị N1, Bùi Thị Ngọc N2, Bùi Kim L được nhận chung một kỷ phẩn thừa kế là 3.957.000đồng.

Các con ông Lê Văn T1: Lê Thị Kim Y, Lê Sĩ Ng, Lê Thị Nh, Lê Thành T4, Lê Ngọc Ch được nhận chung một kỷ phần thừa kế là 3.957.000đồng.

Bà Lê Thị H2 được nhận một kỷ phần thừa kế là 3.957.000đồng.

4.Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 390779 cấp ngày 13/3/1995 cho ông Lê Văn T1; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB 743925 cấp ngày 24/8/2010 cho bà Phạm Thị N.

5.Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M và yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu chia di sản thừa kế một ngôi nhà cấp 04, 01 sân xi măng và cây lâu năm theo bảng kê bồi thường của UBND huyện T và tiền hỗ trợ về đất.

6.Đình chỉ xét xử yêu cầu phản tố của bị đơn Phạm Thị N đối với yêu cầu trả lại số tiền cúng giỗ ông Lê Đ, tuần tự và cúng giỗ bà Nguyễn Thị U.

7.Ghi nhận sự tự nguyện của các nguyên đơn giao cho bị đơn Phạm Thị N và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lê Thị Kim Y, Lê Sĩ Ng, Lê Thị Nh, Lê Thành T4, Lê Ngọc Ch tiếp tục sử dụng phần diện tích đất ruộng và đất màu của bà Nguyễn Thị U được giao theo nghị định 64/CP tại các thửa 511, 509 tờ bản đồ 12-A, thửa 573 tờ bản đồ 12-C, thửa 564 tờ bản đồ 12-B tọa lạc tại khu phố P, thị trấn T, huyện T.

8.Về án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm và dân sự phúc thẩm cho các bà Lê Thị T, Lê Thị K, Lê Thị M nên mỗi người được hoàn lại 200.000đồng tiền tạm ứng án phí ở biên lai thu tiền số 06721, số 06722, số 06723 ngày 21/02/2014 và 300.000đ tiền tạm ứng án phí ở biên lai thu tiền số 001803, số 001804, số 001805 ngày 21/4/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Bùi Thi V1, Bùi Thị Cẩm N3, Bùi Ngọc Thái A, Bùi Ngọc A1, Bùi Thị Kim O, Bùi Thị Kim D, Bùi Thị Mỹ H4, Bùi Tấn Q, Bùi Ngọc H3, Bùi Văn V, Bùi Vũ P, Bùi Thị N1, Bùi Thị Ngọc N2, Bùi Kim L cùng phải chịu 200.000đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đồng đã nộp tiền tạm ứng án phí ở biên lai thu tiền số 0005810 ngày 02/01/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, nên được hoàn lại 100.000đồng.

Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Lê Thị H2 nên bà H2 được hoàn lại 300.000đồng đã nộp tiền tạm ứng án phí ở biên lai thu tiền số 0005811 ngày 02/01/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Các anh chị Lê Thị Kim Y, Lê Sĩ Ng, Lê Thị Nh, Lê Thành T4, Lê Ngọc Chcùng phải chịu 200.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Miễn án phí dân sự sơ thẩm, án phí dân sự phúc thẩm cho bà Phạm Thị N nên bà N được hoàn lại 3.250.000đồng tiền tạm ứng án phí ở biên lai thu tiền số 0010478 ngày 26/03/2018 và 300.000đồng tạm ứng án phí ở biên lai thu tiền số 001806 ngày 21/4/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

9.Về chi phí định giá tài sản: Chi phí định giá tài sản các thửa đất ruộng và đất màu 2.000.000đ các nguyên đơn phải chịu (đã nộp đủ).

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp chia di sản thừa kế số 13/2022/DS-PT

Số hiệu:13/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về