TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 92/2023/DS-PT NGÀY 03/08/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
Ngày 03 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 76/2023/TLPT-DS ngày 27 tháng 6 năm 2023 về việc “Tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại về sức khỏe”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 76/2023/DS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 110/2023/QĐ-PT ngày 20 tháng 7 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị D, sinh năm 1957 (có mặt) Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện T, tỉnh T.
- Bị đơn: Anh Trần Tuấn K, sinh năm 1986 (có mặt) Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện T, tỉnh T.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Trần Thị Mỹ T, sinh năm 1990 (có mặt) Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện T, tỉnh T.
2. Anh Đỗ Minh P, sinh năm 1987(Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện T, tỉnh T.
3. Bà Trần Thị M, sinh năm 1955 (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện T, tỉnh T.
4. Ông Trần Văn T1, sinh năm 1949 (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện T, tỉnh T.
5. Bà Lê Thị H, sinh năm 1955 (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện T, tỉnh T.
- Người kháng cáo: Bà Trần Thị D là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trần Thị D trình bày: Trước đây bà với anh Trần Văn T1 (ông T1 là anh bà, là cha ruột anh K) có tranh chấp quyền sử dụng đất, bản án của Tòa án có buộc ông T1 phải trả chi phi thẩm định, định giá cho bà bằng 1.658.171 đồng, bà với bà Lê Thị H vợ ông T1 thống nhất ông T1, bà H sẽ trả số tiền này cho bà bên ngoài không cần phải qua cơ quan Thi hành án nhận. Khoảng 15 giờ ngày 07/5/2022 bà qua nhà ông T1 lấy tiền để sáng mai bà đi làm, ông T1 nói không có tiền kêu bà chờ chủ đất về mà lấy “đất ông T1 cho Trần Tuấn K đứng tên rồi” nên bà đi về nhà. Khoảng 08 giờ ngày 08/5/2022, bà qua nhà ông T1 lấy tiền lần nữa thì ông T1 chỉ tay kêu bà qua anh Trần Tuấn K lấy (anh K cũng đang đứng kế bên) anh K có nói “Bà lên Thi hành án mà lấy”, lúc này bà có chửi thề, anh K nói “Bà về đi, mới sáng bà làm gì qua nhà tôi đòi tiền”, bà chửi thề anh K lần nữa và nói “Mầy nói vậy mà nói được hả” rồi anh K đi lại đánh bà 0 cái vào mặt bà đang ngồi trên ghế đẩu làm bà té ngã nằm xuống nền đal, bà không đứng lên được, lý do 10 năm trước bà có mỗ thoát vị đỉa đệm trong lưng còn bắt y nốc, bà cố gắng gượng 03 lần mới tự đứng lên được. Bà có chụp cái ly uống nước trà đang để trên bàn (ly dính 2 cái) chọi anh K thì ông T1 chụp tay bà lại làm 01 cái ly giăng xuống nền đal bể, còn 01 cái không bể, bà có nói “Sao mầy giám đánh tao”, anh K không nói gì đi lại đánh bà 0 bạt tay vào mặt mé bên phải lần này anh K đánh mạnh hơn bà đang đứng nên té nằm xuống nền đal gần giếng nước bất tỉnh. Khi bà tỉnh dậy nhưng vẫn còn nằm ở dưới nền đal, bà có nghe chị Trần Thị Mỹ T (vợ anh K) điện báo công an. Lúc ông N công an ấp lại bà vẫn còn nằm ở nền đal chưa tỉnh hồn, ông N kêu bà ngồi dậy, bà có nói “Ngoan ơi cô không ngồi dậy nỗi”. Lúc này bà Trần Thị M (là chị của bà, là em ông T1) đi thể dục về ngang nghe um xùm ghé vô, bà M và ông N đỡ bà không nỗi nên ông N kêu bà M kiếm ai lại phụ đỡ, bà M chạy qua kêu con bà là anh Đỗ Minh P qua đỡ bà ngồi. Anh P lấy xe Honda chở bà đi ra Bệnh viện Đ nhập viện do bà té phần đầu phía sau gáy đập xuống nền đal xưng 02 cục, bác sĩ kêu bà nhập viện để theo dõi, bác sĩ có nói nếu phần bị xưng không tan thì phải mỗ, bà phải nằm bệnh viện cấp cứu để theo dõi.
Bà nhập viện từ ngày 08/5/2022 đến ngày 17/5/2022, trong thời gian nằm viện anh Đỗ Minh P là người nuôi và chăm sóc bà. Bà xuất viện nhưng không về nhà mà lên bệnh viện M1 chụp siti đầu, lưng và khám bệnh tổng quát, sau khi khám bệnh xong bà về Bệnh viện Đ vô cấp cứu nhập viện nằm điều trị tiếp lần 2. Bà nhập viện từ ngày 18/5/2022 đến ngày 27/5/2022 thì xuất viện, trong thời gian nằm viện bà Trần Thị M là người nuôi và chăm sóc bà. Nay bà yêu cầu anh Trần Tuấn K bồi thường chi phí điều trị gồm các khoản: Tiền thuốc, tiền xe, tiền ăn, tiền ngày công lao động của bà và của người nuôi bệnh tổng cộng bằng 91.228.264 đồng, không yêu cầu tính lãi, đối với ngày công lao động, tiền ăn, tiền xe của bà Trần Thị M và anh Đỗ Minh P bà sẽ giải quyết sau với mọi người.
Bị đơn anh Trần Tuấn K trình bày: Trước đây cha anh là ông Trần Văn T1 với bà Trần Thị D có tranh chấp quyền sử dụng đất, bản án của Tòa án có buộc ông T1 trả tiền chi phí thẩm định, định giá cho bà D. Ngày 08/5/2022, bà D qua nhà đòi anh phải tiền chi phí thẩm định, định giá, anh có nói “Bà lên Thi hành án mà lấy”, bà D ngồi trên ghế dùng những lời lẻ thô tục chửi anh, anh có nói “Bà chửi một hồi tôi đánh bà bây giờ”, bà D vẫn tiếp tục chửi, anh có đánh bà D 01 cái vào mặt bên phải, bà D vẫn còn ngồi trên ghế không có té xuống nền đal, bà D chụp cái ly uống nước trà đang để trên bàn kế chỗ bà D ngồi chọi anh, anh né nên cái ly rớt xuống nền đal bể, bà D vẫn tiếp tục chửi, anh có đánh bà D 01 bạt tay vô mặt, anh không nhớ đánh bên trái hay bên phải, bà D vẫn còn ngồi trên ghế không có té xuống nền đal mà cầm cái ly uống nước trà chọi anh tiếp nhưng không trúng, rồi ông T1 và chị T (vợ anh) vô can nên anh bỏ đi ra phía sau. Bà D còn ngồi trên ghế vẫn tiếp tục chửi, nên chị T gọi điện thoại báo công an lại giải quyết. Bà D cũng điện thoại nói với công an là anh đánh bà chảy máu, khi nhìn thấy công an lại bà D nằm xuống nền đal khóc, anh P con bà D và bà M qua đỡ bà D ngồi dậy cho công an lập biên bản, sau khi lập biên bản xong anh có ký tên. Sau khi lập biên bản xong bà D kêu anh chở đi khám bệnh, chị T thấy hai người mới xích mích nên không cho anh chở, anh P mới lấy xe qua chở bà D đi. Khoảng 03 ngày sau công an xã mời anh lên làm việc, công an nói bà D điện báo anh lên bệnh viện chửi bà, sau khi sự việc xảy ra vợ chồng anh đi làm không có ở nhà. Đến ngày 30/5/2022, tại ấp có mời anh, chị T và bà D lên giải quyết, anh thừa nhận có đánh bà D 02 bạt tay, bà D còn ngồi trên ghế không có té nằm xuống nền đal, anh đồng ý bồi thường cho bà D tiền đi khám bệnh bằng 70.000 đồng, bà D nói có đi chụp siti nên anh đồng ý hỗ trợ cho bà bằng 800.000 đồng và tiền xe bằng 300.000 đồng, còn các khoản khác bà D yêu cầu anh không đồng ý. Nay anh đồng ý bồi thường cho bà D bằng 1.170.000 đồng, còn các khoản khác bà D yêu cầu anh không đồng ý trả.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị Mỹ T trình bày: Chị là vợ anh Trần Tuấn K, ngày 08/5/2022 bà D qua nhà đòi tiền thẩm định, định giá theo bản án đã xử với ông T1, lúc này có 02 vợ chồng chị và ông T1, bà H. Anh K có nói “Bà lên Thi hành án mà lấy”, bà D ngồi trên ghế chửi hoài, anh K có nói “Bà chửi một hồi tôi đánh bà bây giờ”, bà D vẫn tiếp tục chửi, anh K đi lại đánh bà D 01 cái vào mặt, bà D còn ngồi trên ghế không có té nằm xuống nền đal mà chụp cái ly uống nước trà chọi anh K không có trúng, cái ly rớt xuống nền đal bể, bà D vẫn tiếp tục chửi, anh K đánh bà D 01 cái vô mặt, bà D còn ngồi trên ghế không có té xuống nền đal mà cầm cái ly uống nước trà chọi anh K lần nữa nhưng không trúng, chị với ông T1 vô can anh K ra, anh K bỏ ra nhà sau, thấy bà D vẫn còn ngồi chửi nên chị điện thoại báo công an lại giải quyết. Bà D cũng điện thoại nói với công an anh K đánh bà chảy máu, khi bà D nhìn thấy công an ấp, xã lại bà nằm xuống nền đal khóc, anh P và bà M qua đỡ bà D ngồi dậy cho công an lập biên bản, sau khi lập biên bản xong chị có ký tên vào biên bản. Sau khi lập biên bản xong bà D kêu anh K chở đi khám bệnh, chị thấy hai người mới xích mích nên chị không cho anh K chở đi, lúc này anh P mới lấy qua xe chở bà D đi. Đến ngày 30/5/2022, tại ấp có mời chị với anh K và bà D lên giải quyết, anh K đồng ý trả cho bà D tiền đi khám bệnh bằng 70.000 đồng, bà D có nói chụp siti nên đồng ý hỗ trợ cho bà 800.000 đồng và tiền xe bằng 300.000 đồng, tổng cộng bằng 1.170.000 đồng, còn các khoản khác bà D yêu cầu chị và anh K không đồng ý. Chị đồng ý cùng anh K bồi thường cho bà D bằng 1.170.000 đồng như ý kiến trình bày tại ấp, còn các khoản khác anh, chị không đồng ý.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị M trình bày: Bà là chị của bà Trần Thị D, còn anh Trần Tuấn K là cháu, ngày 08/5/2022, sự việc xảy ra giữa bà D với anh K như thế nào bà không có chứng kiến, bà đi tiệm tạp hóa ngang thấy nên đi vô đỡ bà D ngồi dậy, lúc này sức khỏe của bà D bình thường, bà D nằm viện bà có nuôi 09 hoặc 10 ngày ở biện viện đa khoa khu vực T, bà không có yêu độc lập đối với tiền ngày công lao động, tiền ăn và tiền xe nuôi bà D nằm viện, còn bà D có yêu cầu luôn phần của bà thì để bà D giải quyết, bà không có ý kiến.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đỗ Minh P trình bày: Anh là con của bà Trần Thị D, còn anh Trần Tuấn K là con của ông Trần Văn T1, ngày 08/5/2022 sự việc xảy ra giữa bà D với anh K như thế nào anh không có chứng kiến, anh đang ở nhà nghe kêu qua phụ đỡ bà D, anh có chở bà D đi nhập viện, bà D nằm viện anh có nuôi 11 ngày ở biện viện đa khoa khu vực T, anh không có yêu độc lập đối với tiền ngày công lao động, tiền ăn và tiền xe nuôi bà D nằm viện, còn bà D có yêu cầu luôn phần của anh thì để bà D giải quyết, anh không có ý kiến.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn T1 và bà Lê Thị H trình bày: Ông, bà là cha mẹ của anh K, còn bà D là em ruột ông T1, trước đây ông T1, bà H có tranh chấp đất với bà D, Tòa án có buộc ông T1 trả tiền chi phí đo đạc cho bà D bằng 1.658.171 đồng. Ngày 08/5/2022 tại nhà ông T1, bà D qua đòi tiền thẩm định đất do không có tiền trả, bà D dùng những lời lẻ thô tục chửi gia đình ông, bà. Anh K có đánh bà D 02 bạt tay, bà D cầm 02 hoặc 03 cái ly uống nước trà chọi anh K nhưng không trúng, anh K đánh bà D không có té nằm xuống nền đal, bà D vẫn còn ngồi trên ghế kế thèm giếng nước, chị T điện thoại báo công an lại giải quyết, lúc công an vô gần tới bà D nhìn thấy nằm xuống nền đal khóc, vụ việc của bà D với anh K thì để 02 người giải quyết, còn ông, bà với bà D có liên quan đến tiền thẩm định đất để ông, bà giải quyết sau với bà D.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 76/2023/DS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T đã quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị D.
2. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Trần Tuấn K và chị Trần Thị Mỹ Tiên đồng ý bồi thường cho bà Trần Thị D bằng 1.170.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 21 tháng 4 năm 2023, nguyên đơn bà Trần Thị D kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn bà Trần Thị D không rút yêu cầu khởi kiện; giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Ý kiến của vị Kiểm sát viên:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tiến hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án, vị Kiểm sát viên cho rằng việc anh Trần Tuấn K đánh bà Trần Thị D hai bạc tay vào mặt và bà D có nhập viện điều trị là có sự thật. Bà D nằm viện từ ngày 08/5/2022 đến ngày 17/5/2022 xuất viện là 09 ngày nhưng cấp sơ thẩm chỉ tính tiền viện phí và ngày công lao động của bà D chỉ có 03 ngày là chưa chưa phù hợp. Tại phiên hôm nay anh K và chị Trần Thị Mỹ Tiên đồng ý bồi thường cho bà D số tiền 2.797.000 đồng nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện này của anh K, chị T, sửa bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Nguyên đơn bà Trần Thị D yêu cầu bị đơn anh Trần Tuấn K bồi thường cho bà chi phí điều trị gồm các khoản: Tiền thuốc, tiền xe, tiền ăn, tiền ngày công lao động của bà và của người nuôi bệnh tổng cộng bằng 91.228.264 đồng, nguyên nhân thiệt hại trên là do anh K đánh bà. Anh Trần Tuấn K thừa nhận có đánh bà D hai bạc tay vào mặt nhưng không gây thương tích gì cho bà D. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay anh K và chị Trần Thị Mỹ Tiên đồng ý bồi thường cho bà D số tiền 2.797.000 đồng.
[2] Sự việc anh K đánh bà D hai bạc tay vào mặt và bà D có nhập viện điều trị là có sự thật, việc này được anh K, bà D1 thừa nhận. Về thời gian bà D nằm viện điều trị: Sau khi bị anh K đánh, bà Trần Thị D nhập viện Bệnh viện Đa khoa khu vực huyện Đ lúc 11 giờ 35 phút ngày 08/5/2022 đến 07 giờ 00 phút ngày 17/5/2022 xuất viện (BL 72). Sau đó, cũng trong ngày 17/5/2022 bà Trần Thị D lại xin nhập viện Bệnh viện Đa khoa khu vực huyện T đến ngày 27/5/2022 xuất viện (BL 71). Tại biên bản xác minh ngày 11/5/2022 của Công an xã H, huyện T đối với bác sĩ Võ Văn K1, bá sĩ K1 xác nhận tại thời điểm ngày 11/5/2022: “tinh thần, sức khỏe của bà Trần Thị D ổn định, bà D chỉ chấn thương phần mềm mặt, việc bà D bị người khác đánh vào mặt không ảnh hưởng gì nghiêm trọng đến các bộ phận khác trên cơ thể bà D” (BL 153). Mặc dù bà D có hai lần nhập viện, tuy nhiên qua xác nhận của bác sĩ K1 cho thấy việc bà D bị anh K đánh hai bạc tay vào mặt không ảnh hưởng đến các bộ phận khác trên cơ thể của bà D nên Hội đồng xét xử xét thấy thời gian nằm viện hợp lý của bà D do bị anh K đánh là lần nhập viện đầu tiên từ ngày 08/5/2022 đến ngày 17/5/2022, số ngày nằm viện của D là 09 ngày.
[3] Về chi phí điều trị bệnh: Bà D cung cấp nhiều chứng từ trong việc điều trị bệnh của bà nhưng Hội đồng xét xử xét thấy chỉ có chứng từ hợp lệ là chi phí điều trị bệnh tại Bệnh viện Đ với chi phí 1.697.750 đồng (BL 58). Còn các chứng từ và đơn thuốc còn lại bà D cung cấp thể hiện bà bị bệnh viêm khớp, trào ngược dạ dày, các bệnh đau nhứt khác và thời gian các chứng từ này không nằm trong thời gian bà nằm điều trị từ ngày 08/5/2022 đến ngày 17/5/2022 nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[4] Đối với tiền xe đưa bà D2 đi trị bệnh: Bà D cung cấp 17 biên nhận của ông Trần Văn T2 (chạy xe ôm, chở bà D bằng 1.700.000 đồng); 01 biên nhận của ông Nguyễn Văn P1 (chạy xe ôm, chở bà D bằng 700.000 đồng); 01 biên nhận của ông Nguyễn Văn B (chạy xe ôm, chở bà D bằng 100.000 đồng); 01 biên nhận của ông Nguyễn Văn P2 (chạy xe ôm, chở bà D bằng 100.000 đồng); 01 biên nhận của ông Nguyễn Văn H1 (chạy xe ôm, chở bà D bằng 100.000 đồng); 03 biên nhận của ông Trầm Văn H2 (chạy xe 07 chỗ, chở bà D bằng 900.000 đồng). Hội đồng xét xử xét thấy, thực tế bà D có nhập viện điều trị và xuất viện về nhà nên chi phí tiền xe đi về hợp lý được Hội đồng xét xử chấp nhận là 400.000 đồng.
[5] Đối với yêu cầu tiền ngày công lao động của bà D: Mặc dù bà D không chứng minh được công việc và mỗi ngày bà thu nhập số tiền là bao nhiêu, tuy nhiên việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận ngày công lao động của bà D mỗi ngày bằng 100.000 đồng là thấp so với thu nhập bình quân hiện nay. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận ngày công lao động của bà D mỗi ngày là 200.000đồng. Như nhận định ở phần trên, bà D nằm điều trị bệnh là 09 ngày, cấp sơ thẩm chỉ tính ngày công lao động cho bà D chỉ có 03 ngày là chưa phù hợp. Như vậy, tiền ngày công lao động của bà D trong 09 ngày là 1.800.000 đồng.
[6] Bệnh của bà D không có chỉ định của bác sĩ về việc bổ sung chế độ dinh dưỡng nên việc cấp sơ thẩm chấp nhận tiền ăn của bà D trong 03 ngày với số tiền 300.000đồng là không đúng pháp luật, trong khi đó đã tính ngày công lao động cho bà D.
[7] Đối với yêu cầu tiền ngày công lao động của người nuôi bệnh của bà D, Hội đồng xét xử xét thấy, người nuôi bệnh là bà Trần Thị M, ông Đỗ Minh P có ý kiến không yêu cầu nên việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của bà là có cơ sở, đúng pháp luật.
[8] Xét về lỗi của các bên: Bà D thừa nhận có chửi anh K trước và tại quyết định xử phạt hành chính số: 41/QĐ – XPHC ngày 03/6/2022 của Công an huyện T xử phạt bà Trần Thị D cũng nêu rõ hành vi của bà D bị xử phạt là bà D “có hành vi khiêu khích, treo ghẹo, xúc phạm, lang mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác” do đó bà D cũng có lỗi trong vụ việc nên việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà D, ông K mỗi người phải chịu 50% thiệt hại là có cơ sở (BL 161 – 162).
[9] Như vậy, tổng chi phí điều trị bệnh, chi phí tiền xe và ngày công lao động của bà D được Hội đồng xét xử chấp nhận là 3.897.750đồng. Như nhận định trên, bà D có 50% lỗi nên buộc anh K bồi thượng cho bà D số tiền 1.948.875 đồng (3.897.750đồng/2). Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, anh K và chị Tiên đồng ý bồi thường cho bà D số tiền 2.797.000 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này.
[10] Từ những nhận định và phần tích trên [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], Hội đồng xét xử xét thấy kháng cáo của Trần Thị D là có cơ sở chấp nhận một phần.
[11] Xét ý kiến của vị Kiểm sát viên, như phân tích ở phần trên, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận.
[12] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trần Thị D không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị D.
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 76/2023/DS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T.
Áp dụng các Điều 584, 585, 590 của Bộ Luật Dân sự năm 2015.
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị D.
Buộc anh Trần Tuấn K và chị Trần Thị Mỹ T bồi thường cho bà Trần Thị D số tiền 2.797.000 đồng.
Kể từ khi có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị đơn anh Trần Tuấn K phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho bà Trần Thị D, do bà D không có nộp tạm ứng án phí nên không có xử lý.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trần Thị D không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, do bà D không có nộp tạm ứng án phí nên không có xử lý.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại số 92/2023/DS-PT
Số hiệu: | 92/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 03/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về