Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 65/2023/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 65/2023/KDTM-ST NGÀY 03/08/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Trong các ngày 01/8/2023 và ngày 03/8/2023 tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Gò vấp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 69/2022/TLST-KDTM ngày 26 tháng 10 năm 2022 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 252/2023/QĐXXST-KDTM ngày 20 tháng 6 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 258/2023/QĐST-KDTM ngày 13/7/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH G; địa chỉ: Số A Tổ D, khu phố A, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương;

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị Thanh H; địa chỉ: Số A Tổ D, khu phố A, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương. (Có mặt)

2. Bị đơn: Công ty TNHH T (gọi tắt là Công ty T); địa chỉ: số B đường L, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 03/10/2022, bản tự khai và tại phiên tòa đại diện nguyên đơn trình bày:

Vào khoảng năm 2016, Công ty TNHH G (gọi tắt là Công ty G) có thỏa thuận mua hàng của Công ty TNHH T (gọi tắt Công ty T), cụ thể là hóa chất bạc Nitrat. Hai bên đã thỏa thuận về việc thanh toán tiền mua hàng có xuất hóa đơn giá trị gia tăng để khai báo thuế cho doanh nghiệp theo quy định pháp luật. Căn cứ vào các hóa đơn bán hàng do Công ty T cung cấp thì Công ty G đã khai báo thuế và nộp đầy đủ thuế cho ngân sách nhà nước theo đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, đến ngày 10/6/2022 Công ty G nhận thông báo từ Cục T1 về việc xác minh hóa đơn mua vào của Công ty T không có giá trị sử dụng và sau đó cơ quan thuế đã ra kết luận Công ty G sử dụng 50 hóa đơn bất hợp pháp ký hiệu mã hóa đơn 01GTKT3/001, ký hiệu hóa đơn AA/16P từ số 0000134 0000200 trong đó năm 2019 - năm 2020 gồm 30 hóa đơn và năm 2021 - năm 2022 gồm 20 hóa đơn.

Ngày 08/9/2022 Cục thuế tỉnh T1 đã ra 02 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính và Quyết định về việc thu hồi hoàn thuế GTGT với số tiền tổng cộng là 407.228.146 đồng đối với 30 hóa đơn năm 2019 - năm 2020, cụ thể:

- Quyết định số 3585/QĐ-CTBDU ngày 08/9/2022 xử phạt vi phạm hành chính về hóa đơn:

+ Thuế TNDN truy thu số tiền 136.610.906 đồng;

+ Phạt kê khai sai thuế 20% là 55.424.539 đồng;

+ Tiền chậm nộp thuế TNDN là 36.475.112 đồng.

Tổng cộng là 228.510.377 đồng.

- Quyết định số 3586/CTBDU ngày 08/9/2022 về việc thu hồi hoàn thuế GTGT:

+ Thu hồi tiền thuế GTGT là 140.510.891 đồng;

+ Tiền chậm nộp tiền thuế GTGT là 38.206.878 đồng.

Tổng cộng là: 178.717.769 đồng.

Còn đối với 20 hóa đơn còn lại do phát sinh từ niên độ năm 2021 đến tháng 8/2022 không thuộc niên độ kiểm tra của cơ quan thuế nên Công ty G đã tự kê khai điều chỉnh giảm trên tờ khai thuế GTGT và TNDN và tự tính tiền chậm nộp cho thuế với số tiền là 216.719.053 đồng.

Tổng cộng Công ty G đã phải đóng hoàn thuế GTGT, đóng truy thu thuế TNDN, tiền phạt chậm nộp, tiền phạt kê khai thuế sai,... cho 50 hóa đơn trên là 623.947.199 đồng.

Do đó Công ty G yêu cầu Công ty T bồi thường thiệt hại cho Công ty G số tiền là 623.947.199 đồng.

Ngày 09/6/2023 và tại phiên tòa hôm nay Công ty G có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện cụ thể: Công ty G rút yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 192.616.338 đồng, chỉ yêu cầu Công ty T bồi thường thiệt hại đối với số tiền là 431.330.3861 đồng Bị đơn mặc dù đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, triệu tập đến tòa lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không đến nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu ý kiến:

Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về phiên toà sơ thẩm.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại đối với số tiền là 431.330.3861 đồng, đây là tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bị đơn có trụ sở tại quận G nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân quận G theo quy định tại khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa, bị đơn đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, không có lời khai và các tài liệu, chứng cứ giao nộp cho Tòa án để thể hiện sự phản đối yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, bị đơn đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình nên phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử căn cứ các chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xem xét giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ các hóa đơn giá trị gia tăng ký hiệu mã hóa đơn 01GTKT3/001, ký hiệu hóa đơn AA/16P từ số 0000134-0000200, các ủy nhiệm chi thanh toán tiền mua hàng và lời khai của nguyên đơn thể hiện giữa Công ty G và Công ty T có giao dịch mua bán hàng hóa là bạc Nitrat. Theo đó Công ty G mua hàng của Công ty T, thanh toán tiền mua hàng và Công ty T xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty G.

Kể từ năm 2016 đến tháng 5/2022 Công ty T đã xuất 50 hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty G với ký hiệu mã hóa đơn 01GTKT3/001, ký hiệu hóa đơn AA/16P từ số 0000134-0000200.

Căn cứ Biên bản vi phạm hành chính về hóa đơn ngày 08/9/2022 của Cục T1 thể hiện các hóa đơn này đã được cơ quan chức năng thông báo không có giá trị sử dụng nhưng Công ty T vẫn xuất hóa đơn cho Công ty G đề Công ty G kê khai thuế là lỗi của Công ty T và làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty G.

Căn cứ Công văn số 2085/CTBDU-TTKT4 ngày 23/5/2023 Cục thuế tỉnh T1 xác nhận Công ty G đã bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính về hóa đơn đối với 30 hóa đơn năm 2019-2020 với tổng số tiền 407.228.146 đồng. Đối với 20 hóa đơn còn lại Công ty G đã tự điều chỉnh giảm thuế GTGT mua vào với số tiền thuế 24.102.715 đồng vào kỳ kê khai thuế T9/2022 và tự tính tiền chậm nộp là 3.873.680 đồng nộp vào ngày 19/5/2023. Tổng cộng thiệt hại mà Công ty G phải nộp là 435.204.541 đồng.

Như vậy Công ty G đã bị thiệt hại vì hành vi cố ý xuất hóa đơn không còn giá trị sử dụng của Công ty T. Do đó, Công ty T phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Công ty G theo quy định tại Điều 584 và Điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015.

Tuy nhiên, tại phiên tòa Công ty G chỉ yêu cầu Công ty T bồi thường số tiền 431.330.861 đồng. Xét yêu cầu của Công ty G là tự nguyện, không trái pháp luật và có lợi cho bị đơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Buộc Công ty T phải bồi thường thiệt hại cho Công ty G số tiền 431.330.861 đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày Công ty G có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Công ty A&Q chưa thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng Công ty T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án. Lãi suất phát sinh do chậm thi hành được thực hiện theo quy định theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

[2.2] Xét việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Ngày 09/6/2023 và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn đề nghị rút một phần yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn trả số tiền 192.616.338 đồng. Xét thấy việc nguyên đơn rút yêu cầu là tự nguyện, không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu trên của nguyên đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò vấp về việc giải quyết vụ án là có cơ sở và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[4] Về án phí:

Căn cứ quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí là 21.253.234 đồng. Hoàn tiền tạm nộp án phí cho nguyên đơn.

[5] Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5, khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 584 và Điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015; điểm b Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc Công ty TNHH T bồi thường thiệt hại cho Công ty TNHH G số tiền là 431.330.861 đồng làm một lần ngay sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày Công ty TNHH G có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Công ty TNHH T chưa thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng Công ty TNHH T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án. Lãi suất phát sinh do chậm thi hành được thực hiện theo quy định theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

2. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn trả số tiền 192.616.338 đồng.

3. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 21.253.234 đồng do Công ty TNHH T phải chịu.

Hoàn tiền tạm nộp án phí cho nguyên đơn là 14.478.944 đồng theo biên lai thu số AA/2022/0011864 ngày 26/10/2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo các quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 65/2023/KDTM-ST

Số hiệu:65/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành:03/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về