Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 650/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 650/2022/DS-PT NGÀY 04/11/2022 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Trong các ngày 19, 26 tháng 10 và 04 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai Vụ án thụ lý số: 100/2022/TLPT-DS ngày 28 tháng 3 năm 2022 về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 4338/2022/QĐ-PT ngày 09 tháng 8 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 11614/2022/QĐ-PT ngày 30 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 12668/2022/QĐ- PT ngày 22 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty THP; địa chỉ: Số A Đại lộ Bình Dương, phường V, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:

Ông Phùng Thế H, sinh năm: 1983; số B (lầu 2) Trần Quang K, phường T, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Giấy ủy quyền lập ngày 23/8/2022); có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Báo P.; địa chỉ: số C Nguyễn Chí Th, phường N, Quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội.

Chuyên trang PLS (trực thuộc Báo điện tử P.); địa chỉ: số E V, Phường x, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn:

- Ông Nguyễn Xuân B, sinh năm: 1976; địa chỉ: số F đường Ỷ Lan, phường Dương Nội, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội (theo Giấy ủy quyền lập ngày 19/9/2022); có mặt tại phiên tòa.

- Ông Mai Vũ M, sinh năm: 1979; địa chỉ: phường G, Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội (theo Giấy ủy quyền lập ngày 25/10/2022); vắng mặt tại phiên tòa.

3. Người kháng cáo: Báo P. - bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện, bản khai và các biên bản làm việc của Tòa án và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn - Công ty THP (viết tắt là THP) - trình bày:

Lúc 20 giờ 39 phút ngày 29/04/2021, Chuyên trang PLS, trực thuộc Báo điện tử P. (viết tắt là Báo P.) đã phát hành, đăng tải Bài báo: “THP “mua” đất của nạn nhân vụ phở H. ra sao?”, tác giả bài viết là HD tại chỉ https://...chiliet/20026/?utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo&zarsrc=30&fbclid=IwAR3013lioECziZvYN40T3x0dKsvUCoIIIKs0 VnDTVmVDVEN _Rj8KYfG5QNM (viết tắt là Bài báo). Với tiêu đề “THP “mua” đất của nạn nhân phở H ra sao?” và một số nội dung cụ thể như dưới đây, Bài báo đã thể hiện vụ việc có liên quan đến THP:

Điều đặc biệt, trước khi bị bắt, theo hồ sơ, bị can T có giao dịch “bán ” khu đất 1,2 ha cho bà Trần Ngọc B (SN 1984, người đại diện của Cty THP, trụ sở tại TP Thuận An, Bình Dương; con gái thứ hai của Ông T1).

Trước khi vụ án phở H xảy ra, T có phút sinh giao dịch “bán ” khu đất 1,2 ha cho bà Trần Ngọc B (SN1984, người đại diện Cty THP).

Theo nhận định của những người hiện đang tố cáo bà B, bà Trần Uyên P (chị gái bà B), Ông T1 (Ông chủ THP, cha của bà P bà B), ... .Theo đó, người muốn vay tiền .... thì phía THP sẽ cho người vay “quyền mua lại trong khi đó với những người vay khác (ví dụ Cty K), thường sẽ lập bản hợp đồng giả cách “chuyển nhượng” riêng, và giấy “quyền mua ” riêng......

.... những người tố cáo phía THP cho rằng nội dung .....

Một người tố cáo phía THP cho rằng ..........

Những nội dung như nêu trên là không có căn cứ, sai sự thật, nhiều nội dung được cắt ghép và trích dẫn lập lờ, gây hiểu nhầm, xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của THP, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và thương hiệu của THP. Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện, yêu cầu bị đơn - Báo P. - phải gỡ bỏ ngay bài báo: “THP “mua” đất của nạn nhân vụ phở Hòa ra sao?” tác giả bài viết là HD nhưng vẫn lưu giữ nội dung thông tin trên máy chủ để phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra theo quy định của Luật Báo chí  đối với Bài báo trên.

* Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn - Báo P. - trình bày:

Tòa án nhân dân Quận 3 thụ lý giải quyết vụ kiện là không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng, không đúng quy định của Luật Báo chí và giải quyết các tranh chấp liên quan đến hoạt động báo chí.

Báo P. không đồng ý với việc Tòa án nhân dân Quận 3 thụ lý, giải quyết theo yêu cầu của THP. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo lãnh thổ thuộc về Tòa án nơi bị đơn có trụ sở chính. Hiện nay Báo P. có trụ sở tại số C Nguyễn Chí Th, phường N, Quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Vụ việc THP khởi kiện Báo P. là tranh chấp liên quan đến nghiệp vụ báo chí theo quy định tại khoản 10 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân Quận Ba Đình, Hà Nội. Do vậy, đề nghị Tòa án nhân dân Quận 3 đình chỉ giải quyết vụ án đã thụ lý, trả lại đơn khởi kiện và hướng dẫn đương sự khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền theo quy định.

* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 18/01/2022 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của THP, đồng thời Báo P. có trách nhiệm gỡ bỏ ngay bài báo: “THP” mua đất của nạn nhân vụ phở H ra sao?”. Tác giả bài viết là HD nhưng vẫn lưu giữ nội dung thông tin trên máy chủ để phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra theo quy định của Luật Báo chí đối với bài báo trên.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về việc yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo.

* Ngày 25/01/2022, bị đơn - Báo P. - có đơn kháng cáo toàn bộ bản án trên, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn - ông Nguyễn Xuân B - trình bày:

+ Về thẩm quyền:

Đây là tranh chấp liên quan đến hoạt động báo chí theo khoản 10 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quận 3 không phải là nơi nguyên đơn hay bị đơn có trụ sở và hai bên cũng có có thỏa thuận về việc Tòa án nhân dân Quận 3 giải quyết tranh chấp.

Địa chỉ trụ sở của Báo P. là số C Nguyễn Chí Th, phường N, Quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội. Còn địa chỉ số E V, Quận 3 là trụ sở của Cục Công tác phía Nam - Bộ Tư pháp, tại địa chỉ này chỉ có nhân viên kỹ thuật của Chuyên trang PLS làm việc tại đây, Chuyên trang PLS hoàn toàn không có tư cách là một chủ thể để tham gia tố tụng.

Vì vậy, Tòa án nhân dân Quận 3 thụ lý giải quyết vụ kiện là không đúng thẩm quyền.

+ Về quan hệ tranh chấp: ngay từ đầu, Tòa án nhân dân Quận 3 thụ lý vụ kiện là “Tranh chấp yêu cầu cải chính, xin lỗi công khai”, nguyên đơn cũng không có yêu cầu phải bồi thường thiệt hại. Nhưng, tại Bản án sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 18/01/2022, Tòa án nhân dân Quận 3 đã xác định lại quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

+ Về nội dung vụ việc: từ THP trong Bài báo được sử dụng như là một tính từ, nhằm bổ nghĩa cho danh từ đứng trước nó. Bà Trần Ngọc B là người đại diện theo pháp luật của THP là đúng sự thật, bà B là con của ông T1 là đúng sự thật. Chỉ có một tình tiết có thể gây nhầm lẫn là từ THP ở tiêu đề Bài báo. Tuy nhiên, nếu Bài báo sai chỗ nào thì cải chính chỗ đó, không phải toàn bộ Bài báo là sai. Nội dung Bài báo hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến THP.

Từ những nội dung trên, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật - Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

+ Trong Bài báo, ít nhất 06 lần sử dụng cụm từ THP. Tất cả những nội dung Bài báo nêu và bị đơn cũng không chứng minh được liên quan gì đến THP. Báo P. đăng bài báo “THP “mua” đất của nạn nhân vụ phở H ra sao?” không đúng sự thật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh và thương hiệu của THP.

+ Tòa án nhân dân Quận 3 xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” là đúng.

+ Theo chứng cứ nguyên đơn đã cung cấp ở cấp sơ thẩm, thì ngay dưới Bài báo Chuyên trang PLS có ghi rõ là trụ sở số E V, Phường x, Quận 3. Do đó, vụ kiện thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân Quận 3.

Từ những lý do trên, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 18/01/2022 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: từ khi thụ lý vụ án tới thời điểm này, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, các Thẩm phán tham gia phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm.

+ Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: đối với đương sự, từ khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án cho đến thời điểm xét xử tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72, Điều 73, Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về việc giải quyết vụ án dân sự, qua kết quả tranh tụng tại phiên toà, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết là có căn cứ, đúng quy định. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 18/01/2022 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hình thức:

Xét thấy, việc kháng cáo và nộp biên lai tạm ứng án phí được bị đơn - người kháng cáo - thực hiện trong thời hạn luật định nên được cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết.

[2] Xét kháng cáo của bị đơn:

[2.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp Tại “Đơn khởi kiện” ngày 04/5/2021, “Đơn khởi kiện (sửa đổi, bổ sung)” ngày 16/11/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Báo P. đăng phát lời cải chính, xin lỗi THP trên báo chí và thông báo cho THP, gỡ bỏ ngay Bài báo do Chuyên trang PLS - Báo P. phát hành, đăng tải bài báo, viết sai sự thật, tiêu đề bài báo gây nhầm lẫn, xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty THP, không yêu cầu bồi thường thiệt hại bằng tiền.

Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (do Nhà xuất bản Tư pháp phối hợp với Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa xuất bản năm 2006), thì:

- Bồi thường thiệt hại là:

“Hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại.

...

Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại”.

- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là:

“Một loại trách nhiệm dân sự của bên có lỗi (cố ý hoặc vô ý), gây hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, gây hại đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác.

Về nguyên tắc, bên vi phạm pháp luật gây thiệt hại có nghĩa vụ bù đắp toàn bộ thiệt hại mà bên bị vi phạm đã phải gánh chịu. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là hành vi vi phạm pháp luật, thiệt hại xảy ra, quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật với thiệt hại và lỗi của bên vi phạm.

- Tại Điều 584 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì chủ thể gây ra thiệt hại và chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là người có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Theo như các nội dung trên, thì bồi thường thiệt hại hay bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm, theo đó buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất cả về vật chất lẫn tinh thần cho bên bị thiệt hại, chứ không chỉ là bồi thường thiệt hại bằng tiền. Hành vi xin lỗi, cải chính công khai cũng là một hình thức của bồi thường thiệt hại.

Trong vụ kiện này, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn xin lỗi, cải chính. Do đó, tranh chấp giữa các bên đương sự là quan hệ tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định tại khoản 6 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp yêu cầu cải chính, xin lỗi công khai”, Bản án sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 18/01/2022, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định lại quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” là đúng theo các khái niệm như đã viện dẫn, đúng với bản chất và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[2.2] Về thẩm quyền giải quyết Theo thông tin địa chỉ trụ sở được công bố công khai trên Bài báo phát hành là số E V, Phường x, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; sự xác nhận của Công an Phường x, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh về việc có Bộ phận Chuyên trang PLS hoạt động; cũng như sự thừa nhận của người đại diện theo ủy quyền của bị đơn về việc có nhân viên kỹ thuật của Chuyên trang PLS làm việc tại địa chỉ này.

Tại điểm d khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu: “d) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thế yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết ”.

Do đó, việc Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết theo sự lựa chọn của nguyên đơn là đúng thẩm quyền.

[2.3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Xét thấy, vào lúc 20 giờ 39 phút ngày 29/04/2021, Chuyên trang PLS, trực thuộc Báo P.) đã có hành vi cho phát hành, đăng tải Bài báo với tựa đề:

“THP “mua” đất của nạn nhân vụ phở H ra sao?” của tác giả HD tại địa chỉ: https://...chiliet/20026/?utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo&zarsrc=30&fbclid=IwAR3013lioECziZvYN40T3x0dKsvUCoIIIKs0 VnDTVmVDVEN _Rj8KYfG5QNM Bài báo có nội dung thể hiện vụ việc có liên quan đến THP như:

“Điều đặc biệt, trước khi bị bắt, theo hồ sơ, bị can T có giao dịch “bán ” khu đất 1,2 ha cho bà Trần Ngọc B (SN1984, người đại diện của Cty THP, trụ sở tại TP Thuận An, Bình Dương; con gái thứ hai của ông T1).

Trước khi vụ án phở H xảy ra, T có phát sinh giao dịch “bán ” khu đất 1,2 ha cho bà Trần Ngọc B (SN1984, người đại diện Cty THP).

Theo nhận định của những người hiện đang tố cáo bà B, bà Trần Uyên P (chị gái bà B), ông T1 (ông chủ THP, cha của bà P bà B), ....Theo đó, người muốn vay tiền .... Thì phía THP sẽ cho người vay “quyền mua lại trong khi đó với những người vay khác (ví dụ Cty K), thường sẽ lập bản hợp đồng giả cách “chuyển nhượng” riêng, và giấy “quyền mua” riêng....

.... những người tố cáo phía THP cho rằng nội dung ....

Một người tố cáo phía THP cho rằng .......... ” Bên cạnh đó, Bài báo còn cung cấp hình ảnh “Giấy thỏa thuận” giữa hai cá nhân, hình ảnh liên quan đến khu đất của ông T và cung cấp một số thông tin như: “Xuất hiện giấy “quyền mua bán ” giữa bà B và nạn nhân “Thêm một nạn nhân bị chiếm đoạt tài sản? ”.

Nhận thấy, tiêu đề bài báo có mục đích là giúp người đọc nhận diện ngay được nội dung, chủ đề mà bài báo thể hiện. Vì vậy, tiêu đề bài báo phải chứa thông tin chính xác và phù hợp với nội dung bài báo. Với tiêu đề là “THP mua đất của nạn nhân vụ phở H ra sao ”, nhưng nội dung lại trích dẫn việc mua bán đất không liên quan gì đến THP. Các tố cáo, tranh chấp giữa Công ty K, một số cá nhân với bà Trần Uyên P và bà Trần Ngọc B đang được cơ quan có thẩm quyền làm rõ và chưa có kết luận. Tuy nhiên, dù nội dung tố cáo hay kết quả giải quyết tranh chấp giữa các bên như thế nào thì các vụ việc này cũng không liên quan đến THP.

Bài báo cũng thông tin không rõ ràng khi trích dẫn “Kết luận điều tra bổ sung vụ án “phở PT\ nêu “theo hồ sơ” và “trong vụ án này” đế làm người đọc hiểu nhầm, sai sự thật rằng THP có liên quan đến vụ án hình sự này. Thực tế, chỉ có Bản kết luận điều tra bổ sung vụ án hình sự đề nghị truy tố số 746- 29E/KLĐTBS (PC02-Đ8) đối với vụ án Cưỡng đoạt tài sản và Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh ký ngày 13/4/2021 và THP không có bất kỳ tư cách tố tụng nào trong vụ án hình sự này.

Mặt khác, trong những nội dung của Bài báo như trích dẫn trên, từ THP mà Bài báo sử dụng như “phía THP ” không có ý nghĩa là tính từ bổ nghĩa cho danh từ đứng trước nó như người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày, vì xét trong nội dung Bài báo thì cụm từ “phía THP ” đã mang ý nghĩa là một chủ thể rõ ràng. Việc sử dụng cụm từ “THP ” sai từ tiêu đề đến nhiều nội dung khác trong Bài báo, các nội dung sai này đều có liên quan với nhau. Xét về tổng thể, các nội dung này là sai sự thật và đã gây ra sự nhầm lẫn cho người đọc rằng THP có liên quan đến các sự việc được nêu trong bài báo.

Tại các khoản 8, 13 Điều 9 Luật Báo chí năm 2016 có quy định các hành vi bị nghiêm cấm như sau:

“8. Thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; quy kết tội danh khi chưa có bản án của Tòa án. ” “13. Đăng, phát trên sản phẩm thông tin có tính chất báo chí thông tin quy định tại các Khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 và 10 của Điều này. ” Như vậy, Chuyên trang PLS đã có hành vi cố ý cho đăng tải Bài báo có thông tin sai sự thật, nội dung khác với tiêu đề bài viết, sử dụng hình ảnh minh họa không liên quan tiêu đề bài viết, trích dẫn một số nội dung không rõ ràng, gây ra sự nhầm lẫn cho người đọc. Điều này làm ảnh hưởng đến uy tín, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của THP nên có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại theo quy định.

Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn phải bồi thường thiệt hại bằng tiền, chỉ yêu cầu bị đơn phải phát lời cải chính, xin lỗi nguyên đơn và gỡ bỏ ngay bài báo: “THP “mua” đất của nạn nhân vụ phở H ra sao?” của tác giả HD nhưng vẫn lưu giữ nội dung thông tin trên máy chủ để phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra theo quy định của Luật Báo chí đối với bài báo trên. Xét việc cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn, cũng như quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm về đường lối giải quyết vụ án là có cơ sở, phù hợp với quy định tại Điều 42 Luật Báo chí nên được chấp nhận. Bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được thêm các tài liệu, chứng cứ cho rằng kháng cáo của mình là có căn cứ, nên không được chấp nhận.

[4] Án phí dân sự phúc thẩm:

Do kháng cáo của Báo P. không được chấp nhận nên Báo P. phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, Điều 148, khoản 1 Điều 308, Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Áp dụng:

- Điều 584 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Khoản 8, 13 Điều 9 và Điều 42 của Luật Báo chí Việt Nam năm 2016;

- Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014);

- Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Không chấp nhận kháng cáo của Báo P.. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty THP.

a) Báo P. có trách nhiệm đăng phát lời cải chính, xin lỗi Công ty THP trên báo chí và thông báo cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ THP.

b) Báo P. có trách nhiệm gỡ bỏ ngay bài báo: “THP “mua” đất của nạn nhân vụ phở H ra sao?” ngày 29/4/2021 tại Chuyên trang PLS, trực thuộc Báo P.. Tác giả bài viết là HD nhưng vẫn lưu giữ nội dung thông tin trên máy chủ để phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra theo quy định của Luật Báo chí đối với bài báo trên.

2. Về án phí:

a) Án phí dân sự sơ thẩm: Báo P. phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Hoàn lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ THP số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 0033124 ngày 06/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

b) Án phí dân sự phúc thẩm: Báo P. phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số 0006892 ngày 28/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Báo P. đã nộp đủ tiền án phí phúc thẩm.

3. Các quyền và nghĩa vụ của các đương sự được thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 650/2022/DS-PT

Số hiệu:650/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về