TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 478/2022/DS-PT NGÀY 29/11/2022 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Ngày 29 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 381/2022/TLPT-DS ngày 11/10/2022 về việc "Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2022/DS-ST ngày 28/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 431/2022/QĐ-PT ngày 28/10/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 488/2022/QĐPT-HPT ngày giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1971.
Trú tại: Cụm 1, xã H, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Lý P, sinh năm 1977.
Trú tại: Cụm 5, xã H, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Bà Phạm Thị Ánh S, sinh năm 1979.
Trú tại: Cụm 1, xã H, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.
- Ông Nguyễn Khắc Trí, sinh năm 1959.
Trú tại: Cụm 6, xã H, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.
- Bà Nguyễn Thị Hường, sinh năm 1977.
Trú tại: Cụm 5, xã H, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.
Do có kháng cáo của ông Nguyễn Văn T là nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:
Năm 2011 Hợp tác xã và Ủy ban nhân dân xã H có cho thầu khoán bãi bồi ven sông Hồng cho các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp. Các hộ gia đình cùng nhau thầu để sản xuất nông nghiệp. Căn cứ theo Hợp đồng giao khoán số 42/HĐGK ngày 08/9/2016, Ủy ban nhân dân xã H giao cho ông Nguyễn Lý P khu đất bãi nổi Sông Hồng (Bãi Bá - Bồng) để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Tổng diện tích UBND xã giao là 213,9 sào tương đương với 77.004m2. Thời hạn hợp đồng là 05 năm, kể từ ngày 01/9/2016 đến ngày 30/8/2021. Do đặc thù của hợp tác xã quy định chỉ một người đứng trong hợp đồng để tiện việc thu sản của các hộ nên trên hợp đồng thầu bãi bồi H 4 hộ đã thống nhất giao cho ông Phước đứng tên trong hợp đồng từ năm 2011 đến hết năm 2021. Phần bãi nhận thầu được chia theo tỷ lệ góp vốn ông Phước sử dụng khoảng 8,1 mẫu Bắc Bộ, ông Nguyễn Khắc Trí, ông Nguyễn Tất Hùng và ông Nguyễn Khắc Bảo mỗi người sử dụng khoảng 5,5 mẫu (tương đương với 19.800 m2).
Ngày 01/01/2019 ông Nguyễn Khắc Trí giao lại phần bãi của mình cho ông Nguyễn Văn T để sản xuất. Tổng diện tích ông Trí giao cho ông Thành là 35 sào (12.600m2). Quá trình sử dụng, ông Nguyễn Văn T đã nộp đầy đủ tiền thuê đất cho ông Trí đến hết tháng 9 năm 2021. Trong suốt quá trình canh tác từ tháng 1/2019 đến tháng 10/2020, ông Thành sử dụng đất không tranh chấp diện tích đất với ai, cũng không bị yêu cầu ngừng canh tác.
Sáng ngày 13/10/2020 ông Phước thuê máy cày đến phá rau màu quả của ông Thành đang canh tác. Sự việc phá hoại trên đã được Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đan Phượng lập biên bản, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đan Phượng đã định giá tài sản bị thiệt hại. Tổng diện tích cây trồng và hoa màu thực tế gia đình ông Thành bị ông Phước phá hoại gồm 25 sào hoa màu, bao gồm: Cây cải ngọt đang trong thời gian thu hoạch, cây ngô giống, cây cà pháo trắng đang trong thời gian thu hoạch, cây cà chua giống, cây cải ngọt giống và 13 sào trồng cây chuối, cụ thể thiệt hại như sau:
+ Ngô nếp H88 được trồng trên diện tích 1150.8m2 hàng cách hàng 75cm cây cách cây 25cm cây cao 10cm (gieo đã được 20 ngày). Cây ngô từ lúc gieo hạt đến thu hoạch là 70 đến 72 ngày. Chi phí chăm sóc cây ngô tính đến ngày 13/10/2020 gồm: Thuốc cỏ là 600.000 đồng; Phay đất là 800.000 đồng; Soi hàng là 320.000 đồng; Công lao động là 750.000 đồng; Phân bón là 2.080.000 đồng; Ngô giống H88 là 2.720.000 đồng; Thuê đất là 1.280.000 đồng; Công tưới nước là 500.000 đồng; Thuốc trừ sâu là 200.000 đồng. Diện tích 1150.8m2 = 6.137 cây ngô nếp × 3.000 đồng/1 cây = 18.411.000 đồng (Giá trị yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với cây ngô H88/1.150.8m2) + Cà pháo trắng đang cho thu hoạch cây cho quả trong 5 tháng thu hoạch hàng ngày trên diện tích 408m2 cây cà pháo trắng. Chi phí chăm sóc cây cà pháo trắng tính đến 13/10/2020 gồm: Thuốc cỏ là 100.000 đồng; Phay đất là 285.000 đồng; Công lên luống, cấy, tưới nước là 500.000 đồng; Phân bón lót là 650.000 đồng; Cây giống là 816.000 đồng; Thuê đất là 909.000 đồng; Phân bón 2.125.000 đồng; Thuốc bệnh, thuốc sâu là 500.000 đồng; Làm cỏ, tưới nước công là 2.500.000 đồng. Cây cao 1.2 m tán rộng 1m cây cách cây 50cm, hàng cách hàng 1m, diện tích cà là 408m2, 50cm = 816 cây, 3 ngày thu hoạch 1 lần = 45 kg giá bán 13.000/1 kg. Tổng thu 1 tháng là 450kg. Cây cho thu hoạch 5 tháng = 2.250kg × 13.000 đồng/ kg = 29.250.000 đồng (Giá trị yêu cầu bồi thường thiệt hại cây thu hoạch) + Cải ngọt đang cho thu hoạch cây cao 25cm hàng cách hàng 10 cm cây cách cây 5cm, năng suất trung bình 2kg/1m2, Diện tích 308,7m2. Chi phí chăm sóc tính đến ngày 13/10/2020 gồm: Phay đất là 215.000 đồng; Hạt giống là 90.000 đồng; Công làm luống, gieo hạt là 250.000 đồng; Phân bón lót là 650.000 đồng; Công làm cỏ, tỉa cây con là 1.500.000 đồng; Công tưới nước, phun thuốc là 1.250.000 đồng; Phân sau tỉa cây con là 425.000 đồng; Thuê đất là 342.000 đồng. Diện tích cải đang cho thu hoạch là 308,7m2 × 2kg/1m2 = 617.4 kg giá bán 25.000/lkg = 15.435.000 đồng (Giá trị yêu cầu bồi thường
thiệt hại cây thu hoạch) + Cà chua cao 25 cm cấy được 23 ngày tuổi, cao 25cm, luống 1.5m, cấy 2 hàng, cây cách cây 30cm. Diện tích 238,14m2. Chi phí chăm sóc tính đến ngày 13/10/2020 gồm: Phay đất là 166.000 đồng; Công làm luống, cấy, tưới lúc cấy là 500.000 đồng; Phân bón lót là 850.000 đồng; Làm cỏ, tưới nước, vun là 750.000 đồng; Phân vun gốc là 510.000 đồng; Thuê đất là 528.000 đồng; Cây giống là 1.008.000 đồng. Từ khi cấy 2 tháng là cho thu hoạch và thời gian thu hoạch là 3 tháng năng suất trung bình 2.5 kg/01cây, tổng diện tích cà chua là 238.14 m2 = 1050 cây, cây cho thu hoạch 3 tháng = 2.625 kg, giá bán trung bình là 9.000 đồng/1 kg. Diện tích cà chua thu hoạch 2.625 kg × 9.000 đồng/kg = 23.625.000 đồng (Giá trị yêu cầu bồi thường thiệt hại cây thu hoạch) + Một ruộng cải giống gieo sạ cao 5cm; 20 ngày sau là được thu hoạch diện tích cải 280m2 × 2kg/1m2 = 560kg giá bán 25.000/ 01 kg. Cây rau cải ngọt từ khi gieo hạt đến lúc thu hoạch là 30 đến 35 ngày, trung bình 2kg/1m2. Chi phí công chăm sóc ruộng cải giống tính đến ngày 13/10/2020 gồm: Phay đất là 196.000 đồng; hạt giống là 75.000 đồng; Phân bón lót là 585.000 đồng; Công làm cỏ, tỉa cây con, phun thuốc, tưới nước là 1.750.000 đồng; Phân sau tỉa cây con là 425.000 đồng; Thuê đất là 322.000 đồng; Cải bắp 1 hộp (100g) cải xanh mới mọc là 1.200.000 đồng. Diện tích cải ngọt 280 m2 là 560 kg x 25.000 đồng/kg = 14.000.000 đồng (Giá trị yêu cầu bồi thường thiệt hại) + Thiệt hại khác: số chuối nếu cơ quan công an không yêu cầu ngừng canh tác vì lý do đất đang tranh chấp, trong khi việc phá hoại cây trồng dẫn đến tranh chấp là do lỗi ông Phước gây ra. Vì vậy, ông Phước có nghĩa vụ thanh toán thiệt hại sẽ thu hoạch trong 3 tháng là 500 buồng chuối dự kiến mất thu nhập khoảng 50 triệu đồng.
Tổng số tài sản thiệt hại cây trồng, lợi ích tính đến thời điểm thu hoạch cây trồng trên đất là:
- Cây ngô H88 | 18.411.000 đồng. |
- Cà pháo trắng (408m2) | 29.250.000 đồng. |
- Cải đang thu hoạch (308,7m2) | 15.435.000 đồng. |
- Cà chua cao 25cm (238, 14m2) | 23.625.000 đồng. |
- Cây cải mới tỉa cao 5cm | 14.000.000 đồng. |
- Thiệt hại khác | 50.000.000 đồng. |
Ông Nguyễn Văn T yêu cầu ông Nguyễn Lý P bồi thường thiệt hại tài sản các cây hoa màu trên diện tích đất 9.000m2 với tổng số tiền bồi thường thiệt hại tài sản và thiệt hại tính đến thời điểm thu hoạch, chi phí chăm sóc cây hoa màu là 150.721.000 đồng.
- Bị đơn ông Nguyễn Lý P trình bày:
Ngày 24/8/2011 tại UBND xã H, huyện Đan Phượng, TP Hà Nội. Hợp tác xã nông nghiệp H tổ chức đấu thầu công khai đất bãi bồi ven sông Hồng và người trúng thầu là bà Nguyễn Thị Hường (vợ ông Phước). Do đó ngày 13/9/2011 giữa Hợp tác xã nông nghiệp H và bà Nguyễn Thị Hường đã ký hợp đồng giao thầu đất bãi bồi số 01/HĐGT - HTX, diện tích là 198.2 sào (71.352m2), thời hạn hợp đồng 58 tháng (từ ngày 13/9/2011 đến ngày 13/7/2016). Sau khi ký hợp đồng nhận thầu bà Hường cho ông Nguyễn Khắc Trí là cậu ruột và ông Nguyễn Tất Hùng là anh họ vào làm cùng với điều kiện là đóng sản theo như thỏa thuận trong hợp đồng số 01/HĐGT-HTX ký ngày 13/9/2011 giữa Hợp tác xã nông nghiệp H và bà Nguyễn Thị Hường, thời hạn Hợp đồng là 05 năm đến ngày 13/7/2016 thì hết hạn Hợp đồng và thanh toán ngay sau khi hợp đồng ký kết, tức là thanh toán trước rồi mới được canh tác. Sau khi hợp đồng hết hạn ngày 13/7/2016 thì Hợp tác xã nông nghiệp H đã ký thanh lý Hợp đồng với bà Nguyễn Thị Hường đồng thời thu hồi tất cả diện tích đất trên giao cho UBND xã H quản lý.
Ngày 08/9/2016 UBND xã H ký hợp đồng giao khoán số 42/HĐGK cho ông Nguyễn Lý P: Diện tích lô 1 là: 192.6 sào; Diện tích lô 2 là 21.3 sào. Giá trị của hợp đồng là: 570.000 đồng/sào/năm, thanh toán từng năm vào đầu chu kỳ mỗi năm.
Do ông Nguyễn Khắc Trí và ông Nguyễn Tất Hùng đang sản xuất trên diện tích đất do bà Hường nhận thầu từ Hợp tác xã trước đó, nên khi nhận thầu từ UBND xã H ông Phước vẫn để ông Trí, ông Hùng tiếp tục sản xuất với điều kiện thanh toán tiền sản vào ngày 8 tháng 9 hàng năm theo quy định trong hợp đồng. Nếu chậm thanh toán hoặc không thanh toán tiền sản theo quy định thì sẽ bị thu hồi. Tuy nhiên năm 2017 và 2018 nước lũ Sông Hồng dâng cao ngập hết bãi, một số diện tích cây trồng bị chết nên ông Trí không chịu đóng sản theo thỏa thuận và đưa ra nhiều lý do để không trả tiền sản cho ông Phước nên ngày 27/7/2020 ông Phước đã làm 03 bản thông báo thu hồi đất 01 bản gửi ông Trí, 01 bản gửi ông Thành, 01 bản gửi UBND xã H, thời gian thu hồi đất là ngày 03/8/2020. Sau ngày đó ông Trí vẫn không chịu trả lại mặt bằng cho ông Phước mà vẫn để ông Thành canh tác trên diện tích đất đó. Ngày 06/10/2020 ông Phước ra thông báo thu hồi lần 2 đối với ông Trí không được canh tác tiếp nhưng vẫn cho ông Trí thu hết những cây đang cho thu hoạch đến hết ngày 30/12/2020. Tuy nhiên ngày 8/10/2020 ông Trí vẫn cho anh Thành tiếp tục cày và gieo hạt cây mới trên diện tích đất ông Phước có thông báo thu hồi, không chịu hợp tác, không thanh toán hết tiền sản còn lại. Ngày 13/10/2020 ông Phước thuê người phá bỏ những cây trồng ngắn ngày do anh Thành gieo trồng (cây hoa màu mà cơ quan Công an khám nghiệm hiện trường ngày 15/10/2020, có biên bản) trên phần đất mà hợp đồng giao khoán giữa UBND xã H với ông tại lô 1 có diện tích là 192,6 sào mà ông Trí đang canh tác.
Việc ông Thành yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số tiền 150.721.000 đồng ông Phước không chấp nhận.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Ánh S trình bày:
Bà là vợ của ông Nguyễn Văn T, việc thuê đất và trồng hoa màu ở bãi Bồng Bá do ông Thành thực hiện, công việc của bà là đi chợ, nên không biết việc thiệt hại cây cối hoa màu do ông Phước phá hoại như thế nào.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Khắc Trí trình bày.
Năm 2011 Hợp tác xã Nông nghiệp H có chủ trương cho dân thầu bãi bồi Bồng Bá. Do có nhu cầu làm bãi nên ông Trí đã thống nhất với vợ chồng ông Phước, bà Hường góp vốn cùng sản xuất (chỉ nói miệng không có văn bản gì), theo đó bà Hường là người đại diện đứng ra ký hợp đồng thầu khoán với Hợp tác xã. Ngày 13/9/2011 giữa HTX nông nghiệp H và bà Nguyễn Thị Hường đã ký hợp đồng giao thầu đất bãi bồi số 01/HĐGT - HTX, diện tích là 198.2 sào (71.352m2), thời hạn hợp đồng 58 tháng (đến ngày 13/7/2016). Sau khi ký Hợp đồng, ông Trí cùng vợ chồng ông Phước cùng nhau canh tác sản xuất trên thửa đất đã ký với xã, được một thời gian thì chia ra để sản xuất. Sau khi hợp đồng hết hạn ngày 13/7/2016 thì HTX nông nghiệp H chuyển giao cho UBND xã H quản lý, vẫn giữ nguyên các bên tham gia hợp đồng, đồng thời gia hạn hợp đồng cho người sản xuất.
Đến ngày 08/9/2016 UBND xã H ký hợp đồng giao khoán số 42/HĐGK cho ông Nguyễn Lý P: Diện tích lô 1 là: 192.6 sào; Diện tích lô 2 là 21.3 sào. Do ông Trí đang sản xuất trên diện tích đất mà bà Hường nhận thầu từ HTX trước đó nên khi ký lại hợp đồng giao khoán từ UBND xã H ông Trí vẫn tiếp tục sản xuất và thanh toán tiền sản lượng hàng năm cho ông Phước để ông Phước nộp cho xã. Do điều kiện sức khỏe nên năm 2019 ông Trí đã giao lại toàn bộ diện tích đất đang sử dụng trên hợp đồng mà ông Phước đứng tên cho vợ chồng ông Nguyễn Văn T sản xuất. Trước khi giao đất cho ông Thành, ông Trí có thông báo cho ông Phước biết và ông Thành vẫn có trách nhiệm đóng tiền sản hàng năm cho ông Trí để đưa ông Phước nộp cho UBND xã H. Từ năm 2019 gia đình ông Thành sử dụng đất, vẫn đóng đủ sản cho ông Trí và ông Trí đã đưa đủ cho ông Phước. Sau khi giao lại diện tích đất cho ông Thành, gia đình ông Thành quản lý và trồng cây gì ông Trí không biết, ông cũng không biết việc ông Phước thuê người phá hoa màu của gia đình ông Thành. Vì vậy, ông Trí cho rằng ông không liên quan trong việc phá hoại hoa màu giữa ông Phước và ông Thành.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hường trình bày.
Ngày 24/8/2011 tại UBND xã H, huyện Đan Phượng, TP Hà Nội. HTX nông nghiệp H tổ chức đấu thầu công khai đất bãi bồi ven Sông Hồng, người trúng thầu là bà, diện tích là 198.2 sào (71.352m2), thời hạn hợp đồng 58 tháng (từ ngày 13/9/2011 đến ngày 13/7/2016). Sau khi nhận thầu, bà Hường có cho ông Nguyễn Khắc Trí là cậu ruột và ông Nguyễn Tất Hùng là anh họ vào làm cùng với điều kiện là đóng sản theo như thỏa thuận trong hợp đồng số 01/HĐGT-HTX ký ngày 13/9/2011 giữa HTX H và bà Nguyễn Thị Hường. Sau khi hợp đồng hết hạn ngày 13/7/2016 thì HTX nông nghiệp H đã ký thanh lý Hợp đồng với bà Nguyễn Thị Hường đồng thời thu hồi tất cả diện tích đất trên giao cho UBND xã H quản lý. Đến ngày 08/9/2016 do bà Hường không trực tiếp canh tác nên UBND xã H ký hợp đồng giao khoán số 42/HĐGK cho chồng bà Hường là ông Nguyễn Lý P. Từ khi ông Phước đứng tên chủ hợp đồng giao thầu đất, bà Hường không tham gia bất cứ việc gì liên quan đến khu bãi Bồng Bá nữa mà chỉ giúp ông Phước thu tiền của ông Trí để nộp về ngân sách xã, còn việc ông Phước phá hoại hoa màu của ông Thành, bà Hường không biết.
Ngày 15/10/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đan Phượng khám nghiệm hiện trường và tiến hành điều tra hành vi của ông Nguyễn Lý P. Tại kết luận định giá tài sản số 09/KL - HĐĐGTS ngày 05/2/2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện Đan Phượng xác định:
- Cây ngô giống, giống ngô H88, mỗi cây cao 10 cm, trồng trên diện tích đất 1.158,80m2, có giá trị 1.150,80m2 × 5.000 đồng/m2 = 5.754.000 đồng.
- Cây cà pháo trắng đang trong thời gian thu hoạch, mỗi cây cao 1,2m, tán rộng 01m, trồng trên diện tích đất 408m2, có giá trị 408m2 × 6.000 đồng/m2 = 2.448.000 đồng.
- Cây cà chua giống, mỗi cây cao 25 cm, trồng trên diện tích đất 238,14m2 , có giá trị 238,14 m2 × 7000 đồng/m2 = 1.666.980 đồng.
- Cây cải ngọt đang trong thời gian thu hoạch, trồng trên diện tích đất 308,7m2, có giá trị 308,70m2 × 8.000 đồng/m2 = 2.469.600 đồng.
- Cây cải ngọt giống, mỗi cây cao 05cm, trồng trên diện tích đất 280m2, có giá trị 280m2 × 8.000 đồng/m2 = 2.240.000 đồng.
Tổng số tiền: 14.578.580 đồng.
Ngày 13/4/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đan Phượng ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự hủy hoại tài sản ngày 13/10/2020 do xét thấy vụ việc trên là tranh chấp dân sự giữa ông Nguyễn Lý P và ông Nguyễn Văn T.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2022/DS-ST ngày 28/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội đã quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm của ông Nguyễn Văn T đối với ông Nguyễn Lý P.
2. Buộc ông Nguyễn Lý P phải bồi thường trả cho ông Nguyễn Văn T số tiền 21.867.580 đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn T đề nghị HĐXX sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông, buộc ông Phước bồi thường thiệt hại cho ông số tiền là 107.000.000 đồng và xử lý hình sự đối với hành vi phá hoại hoa mầu của ông Phước.
Bị đơn ông Nguyễn Lý P đề nghị HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hường thống nhất với lời trình bày của ông Phước.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Ánh S thống nhất với lời trình bày của ông Thành.
HĐXX công bố lời khai của các đương sự vắng mặt Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của BLTTDS.
Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện VKS nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị HDXX áp dụng Khoản 1 Điều 308 BLTTDS giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2022/DS-ST ngày 28/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy: về hình thức:
Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T nộp trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.
Về nội dung:
Trên cơ sở tổ chức đấu thầu công khai đất bãi bồi ven sông Hồng, ngày 13/9/2011 Hợp tác xã nông nghiệp H và bà Nguyễn Thị Hường (vợ ông Nguyễn Lý P) đã ký hợp đồng giao thầu đất bãi bồi số 01/HĐGT - HTX, diện tích là 198.2 sào (71.352m2), thời hạn hợp đồng 58 tháng (đến ngày 13/7/2016). Sau khi ký hợp đồng nhận thầu, bà Hường đã giao cho ông Nguyễn Khắc Trí được sản xuất trên một phần diện tích đất với điều kiện ông Trí đóng sản cho bà Nguyễn Thị Hường để nộp tiền sản theo quy định. Ngày 13/7/2016 hợp đồng hết hạn Hợp tác xã nông nghiệp H đã ký thanh lý Hợp đồng với bà Nguyễn Thị Hường đồng thời thu hồi tất cả diện tích đất trên bàn giao cho UBND xã H quản lý.
Ngày 08/9/2016 UBND xã H ký hợp đồng giao khoán số 42/HĐGK cho ông Nguyễn Lý P với diện tích lô 1 là 192.6 sào; diện tích lô 2 là 21.3 sào. Giá trị của hợp đồng là 570.000 đồng/sào/năm, thanh toán từng năm vào đầu chu kỳ mỗi năm. Do ông Nguyễn Khắc Trí đang sản xuất trên diện tích đất mà trước đó bà Hường nhận thầu từ Hợp tác xã, nên khi ký lại hợp đồng giao khoán từ UBND xã H, ông Phước vẫn để cho ông Trí tiếp tục sản xuất và thanh toán tiền sản lượng hàng năm cho ông Phước để nộp cho UBND xã H. Sản xuất đến năm 2019 do điều kiện sức khỏe ông Trí đã giao lại diện tích đất đang sử dụng trên hợp đồng mà ông Phước đứng tên cho ông Nguyễn Văn T sản xuất.
Về nguyên nhân dẫn đến ngày 13/10/2020 ông Nguyễn Lý P thuê người phá bỏ những cây trồng ngán ngày của ông Nguyễn Văn T gieo trồng. Xuất phát từ việc ông Phước cho rằng năm 2017 và 2018 nước lũ Sông Hồng dâng cao ngập hết bãi, một số diện tích cây trồng bị chết nên ông Trí không chịu đóng sản theo thỏa thuận và đưa ra nhiều lý do để không trả, nên ngày 27/7/2020 ông Phước đã làm 03 bản thông báo thu hồi đất gồm: 01 bản gửi ông Trí, 01 bản gửi ông Thành, 01 bản gửi UBND xã H, thời gian thu hồi đất là ngày 03/8/2020. Sau ngày này ông Trí không chịu trả lại mặt bằng mà vẫn cho ông Thành canh tác trên diện tích đất đó, nên ngày 06/10/2020 ông Phước ra thông báo thu hồi lần 2 đối với ông Trí, yêu cầu không được canh tác tiếp nhưng vẫn cho ông Trí thu hết những cây đang cho thu hoạch đến hết ngày 30/12/2020. Tuy nhiên, ngày 8/10/2020 ông Trí vẫn cho ông Thành tiếp tục cày và gieo hạt cây mới, phớt lờ thông báo của ông Phước, không chịu hợp tác cũng như không thanh toán hết tiền sản còn lại dẫn đến ngày 13/10/2020 ông Phước thuê người phá bỏ những cây trồng ngán ngày do anh Thành gieo trồng. Còn ông Trí trình bày, trước khi giao đất cho ông Thành, ông có thông báo cho ông Phước biết và ông Thành vẫn phải có trách nhiệm đóng tiền sản hàng năm cho ông Trí để đưa ông Phước nộp UBND xã H. Từ năm 2019 gia đình ông Thành sử dụng và vẫn đóng đủ sản cho ông Trí và ông Trí đã đưa cho anh Phước để nộp tiền sản cho xã.
Như vậy, giữa ông Nguyễn Lý P và ông Nguyễn Khắc Trí có sự tranh chấp về việc thanh toán tiền nộp sản với nhau. Xong hai bên không tự thỏa thuận hòa giải hoặc sử dụng biện pháp giải quyết hanh chấp thông qua Tòa án (quá trình giải quyết vụ án, ông Phước, ông Trí không yêu cầu giải quyết những vấn đề này). Dần đến ngày 13/10/2020 ông Phước đã phá bỏ những cây cối, hoa màu của ông Nguyễn Văn T gieo trồng trên diện tích đất ông Trí giao lại cho ông Thành. Xác định lỗi trong vụ việc phá hoại những cây cối, hoa màu, là do ông Nguyễn Lý P đã có hành vi xâm phạm gây thiệt hại tài sản của ông Nguyễn Văn T làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 584 của Bộ luật dân sự, nên ông Nguyễn Lý P phải bồi thường, là có căn cứ pháp luật.
Xét yêu cầu bồi thường của ông Nguyễn Văn T về tổng số tiền bồi thường thiệt hại tài sản và thiệt hại tính đến thời điểm thu hoạch, chi phí chăm sóc cây hoa màu là 150.721.000 đồng. Nhận thấy, số tiền yêu cầu bồi thường nêu trên là do ông Thành tự kê khai, tính toán và tính cả phần thu lợi cây cối hoa màu đến thời điểm khi thu hoạch xong. Ông Thành không đưa ra được những tài liệu, chứng cứ nào chứng minh cho việc thiệt hại thực tế khi bị phá hoa màu. Sau khi xảy ra việc phá hoại hoa màu, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đan Phượng đã khám nghiệm hiện trường, tiến hành điều tra về hành vi hủy hoại tài sản và yêu cầu định giá tài sản theo quy định của pháp luật. Tại kết luận định giá tài sản số 09/KL - HĐĐGTS ngày 05/2/2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện Đan Phượng xác định thiệt hại cây ngô giống, cây cà pháo trắng, cây cà chua giống, cây cải ngọt đang trong thời gian thu hoạch, cây cải ngọt giống, tổng số tiền là 14.578.580 đồng. Tại đơn kiến nghị gửi công an xã H ngày 13/10/2020 ông Nguyễn Văn T cũng xác định thiệt hại khoảng 8.000.000 đồng (BL211). Do vậy, bản án sơ thẩm chấp nhận khoản thiệt hại do tài sản bị hủy hoại là 14.578.580 đồng và lợi ích gắn liền với việc khai thác tài sản bị hủy hoại (xác định bằng 50% số tiền bị thiệt hại) là 7.289.000 đồng là phù hợp.
Đối với yêu cầu xử lý hình sự về hành vi phá hoại hoa mầu của ông Phước. Ngày 13/4/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đan Phượng ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự hủy hoại tài sản ngày 13/10/2020 do xét thấy vụ việc trên là tranh chấp dân sự giữa ông Nguyễn Lý P và ông Nguyễn Văn T.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phù hợp với nhận định của HĐXX.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T.
Về án phí:
Án phí dân sự phúc thẩm:
Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận, ông Thành phải chịu án phí dân sự phúc thẩm Án phí dân sự sơ thẩm:
- Nguyên đơn ông Nguyễn Văn T phải chịu 6.442.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.750.000 đồng, ông Nguyễn Văn T phải còn phải nộp tiếp số tiền 2.692.000 đồng.
- Bị đơn ông Nguyễn Lý P phải chịu 1.093.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên, áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số số 14/2022/DS-ST ngày 28/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Điều 584, 585, 586,589 Bộ luật dân sự;
- Điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm của ông Nguyễn Văn T đối với ông Nguyễn Lý P.
2. Buộc ông Nguyễn Lý P phải bồi thường trả cho ông Nguyễn Văn T số tiền 21.867.580 đồng.
Về án phí:
Án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Nguyễn Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, đối trừ vào số tiền dự phí kháng cáo đã nộp tại Biên lai thu số 0002845 ngày 10/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội Án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Nguyễn Văn T phải chịu 6.442.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Đối trừ vào số tiền số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 3.750.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002622 ngày 12/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội. Ông Nguyễn Văn T phải còn phải nộp tiếp số tiền 2.692.000 đồng.
- Ông Nguyễn Lý P phải chịu 1.093.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 478/2022/DS-PT
Số hiệu: | 478/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về