Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 31/2020/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 31/2020/DS-PT NGÀY 29/04/2020 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 30/2020/TLPT-DS ngày 10-02-2020 về việc “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 100/2019/DS-ST ngày 28-11-2019 của Tòa án nhân dân thành phố V bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2020/QĐXX-PT ngày 27 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1988 (Có mặt) Địa chỉ: Số 828/2/6A đường B, Phường V, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Tàu. mặt).

- Bị đơn: Bà Phạm Thị H , sinh năm 1988 (Có mặt).

Địa chỉ: Số 828/2A/28 đường B, Phường V, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Đỗ Thành H, sinh năm 1979 (Cùng địa chỉ nguyên đơn - Xin vắng

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Nguyễn Thị M trình bày: Vào khoảng 14 giờ ngày 24-4-2019 Bà được tin báo là trên mạng xã hội Facebook có xuất hiện đường link PT HOA - Chợ Vũng Tàu, bà Phạm Thị H tự ý đăng ảnh trẻ em con trai của Bà là Đỗ Quý T, sinh ngày 04-3-2013 mà không được sự đồng ý của Bà và cha của bé là ông Đỗ Thành H, kèm theo nội dung như sau: “Thông báo cả nhà thấy mà tránh, Y tá điều dưỡng L dạy con đi ăn cướp vặt. Mọi phản ánh từ việc Ku trẻ con trong ảnh cướp đồ chơi, dang tay chặn xe đi đường, sờ bím bé gái, đấm trẻ cùng lứa mạnh không thương tiếc, người lớn nói thì mắt trợn ngược chỉ tay đe dọa thách thức lại…. của tất cả mọi người trong xóm nhỏ đều được con mẹ là y tá điều dưỡng bệnh viện L (bố bác sỹ) gạt bay và luôn cho con mình là đúng mọi trường hợp. Thử hỏi óc của nó dài mà dạy con như vậy thì cái công việc mà nó đảm nhiệm nó có đi ăn cướp về làm giàu cho bản thân hay không? Nói phét nói khoác thì số 1 thiên hạ mà không thấy làng nước cười cho vào mặt mà còn rất tự hào độ khoác đó”. Như vậy, với nội dung như trên bà Phạm Thị H đã nói xấu, vu khống, bịa đặt trắng trợn về hành vi, nhân phẩm, tư cách đạo đức con trai bà là Đỗ Quý T đồng thời xúc phạm, bôi xấu vợ chồng bà, nêu rõ địa chỉ cơ quan nơi bà đang công tác nhằm làm mất danh dự, uy tín, nhân phẩm của vợ chồng bà với đồng nghiệp và bệnh nhân nơi Ông Bà làm việc. Vì vậy, nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Phạm Thị H phải công khai xin lỗi con trai bà là Đỗ Quý T và gia đình bà trên chính trang mạng xã hội mà bà H đã đăng tải; bồi thường thiệt hại về danh dự nhân phẩm, uy tín, sức khỏe, tâm sinh lý của con trai Bà và gia đình (Vợ chồng Bà phải xin nghỉ làm để giải quyết vụ việc) là 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

- Bị đơn bà Phạm Thị H : Do bà H vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, nên không thể hiện quan điểm và ý kiến về vụ án.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Đỗ Thành H trình bày: Ông là cha của bé Đỗ Quý T và đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M.

Bản án dân sự sơ thẩm số 100/2019/DS-ST ngày 28-11-2019 của Tòa án nhân dân thành phố V đã tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M về việc: Buộc bà Phạm Thị H phải công khai xin lỗi cháu Đỗ Quý T, ông Đỗ Thành H và bà Nguyễn Thị M trên trang mạng xã hội mà bà H đã đăng tải là mạng Facebook - Chợ Vũng Tàu Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M Buộc bà Phạm Thị H phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị M 7.450.000đ (Bảy triệu, bốn trăm năm mươi nghìn đồng) tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí, lãi suất do chậm thi hành án và quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

- Ngày 16-12-2019, bà Phạm Thị H có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm:

Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên nội dung khởi kiện; bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các bên đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án:

+ Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung vụ án: Căn cứ vào chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thể hiện việc bà Phạm Thị H đã đăng tin và hình ảnh cháu Đỗ Quý T lên trang mạng xã hội Facebook với nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cháu T, ông H và bà M mà không được sự dồng ý của ông Hưng và bà M là việc làm vi phạm pháp luật.

Cấp sơ thẩm đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M là có căn cứ. Không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Bà Phạm Thị H .

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bà H , giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng của vụ án:

[1.1] Đơn kháng cáo của bị đơn được lập đúng thủ tục và còn trong thời hạn quy định, nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[1.2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường một số tiền vì cho rằng bị đơn đã có hành vi xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm nên xác định quan hệ tranh chấp cần được giải quyết là “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Bị đơn cư trú tại thành phố V, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố V.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành thực hiện việc tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án cũng như các văn bản tố tụng khác cho bà Phạm Thị H nhưng không tống đạt được. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng bà H vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử vắng mặt bà H là đúng quy định.

[2] Về nội dung tranh chấp và yêu cầu kháng cáo:

Nhận thấy; ngày 24-4-2019 trên mạng xã hội Facebook có xuất hiện đường link PT HOA – Chợ Vũng Tàu , bà Phạm Thị H tự ý đăng ảnh trẻ em là bé Đỗ Quý T, sinh ngày 04-3-2013 mà không được sự đồng ý của cha, mẹ của bé là ông Đỗ Thành H, bà Nguyễn Thị M. kèm theo là nội dung: “Thông báo cả nhà thấy mà tránh, Y tá điều dưỡng L dạy con đi ăn cướp vặt. Mọi phản ánh từ việc Ku trẻ con trong ảnh cướp đồ chơi, dang tay chặn xe đi đường, sờ bím bé gái, đấm trẻ cùng lứa mạnh không thương tiếc, người lớn nói thì mắt trợn ngược chỉ tay đe dọa thách thức lại….của tất cả mọi người trong xóm nhỏ đều được con mẹ là y tá điều dưỡng bệnh viện L (bố bác sỹ) gạt bay và luôn cho con mình là đúng mọi trường hợp. Thử hỏi óc của nó dài mà dạy con như vậy thì cái công việc mà nó đảm nhiệm nó có đi ăn cướp về làm giàu cho bản thân hay không? Nói phét nói khoác thì số 1 thiên hạ mà không thấy làng nước cười cho vào mặt mà còn rất tự hào độ khoác đó”. Tại Bản tường trình ngày 04-5-2019 của bà Phạm Thị H tại Công an phường 10, thành phố V Bà đã thừa nhận do bị kích động nên đã đăng nội dung đó trên mạng xã hội và thừa nhận hành vi đó là sai nên đã gỡ xuống sau vài giờ đăng tải, đồng thời chịu sự xử lý của cơ quan pháp luật về hành vi của mình.

Ngày 06-5-2019 bà H cũng đã bị Công an Phường 10, thành phố V xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt là cảnh cáo đối với hành vi trên. Như vậy, việc đăng hình ảnh của cháu Đỗ Quý T với nội dung kèm theo nêu trên của bà H là đã xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cháu T và cả cha mẹ cháu là ông Hưng và bà M.

Theo quy định tại Điều 34, khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585 và Điều 592 của Bộ luật dân sự quy định, có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà M về việc buộc bà H phải công khai xin lỗi con trai Đỗ Quý T và gia đình Bà trên chính trang mạng xã hội mà bà H đã đăng tải là mạng Facebook- Chợ Vũng Tàu .

Đối với yêu cầu buộc bà H phải bồi thường thiệt hại về danh dự nhân phẩm, uy tín, sức khỏe, tâm sinh lý của cháu T và gia đình (Do vợ chồng phải xin nghỉ làm để giải quyết vụ việc) là 20.000.000 đồng.

Xét thấy; theo nguyên tắc về bồi thường thiệt hại thì bà M phải chứng minh được thiệt hại cụ thể mà Bà gánh chịu là như thế nào do hành vi của bà H gây ra; chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế của Bà bị mất hoặc bị giảm sút… Bà có bị hàng xóm, láng giềng, nơi cơ quan làm việc xa lánh hay không. Theo đó, sau khi sự việc xảy ra, Bà có nghỉ làm 02 (hai) ngày, cháu T nghỉ học 05 (năm) ngày. Tuy nhiên, vì thiệt hại là những tổn thất về tinh thần nên không thể chứng minh được những tổn thất, mất mát mà gia đình Bà phải gánh chịu cụ thể như thế nào. Hơn nữa, sau khi đăng tin trên mạng xã hội vài tiếng sau bà H cũng nhận thức được việc làm của mình là sai nên đã gỡ xuống. Sự việc xảy ra xuất phát từ việc trẻ con trong xóm chơi với nhau nhưng người lớn không giải quyết được khi trẻ con có mâu thuẫn.

Căn cứ vào Điều 34, khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585 và khoản 2 Điều 592 của Bộ luật dân sự, cần chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Cấp sơ thẩm đã buộc bị đơn phải có trách nhiệm bồi thường cho bà M số tiền tương đương với 05 tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định là 7.450.000 đồng tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm là có căn cứ và hoàn toàn hợp lý. Bởi lẽ, tại khoản 2 Điều 592 của Bộ luật dân sự quy định:

“… Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự , nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.

Từ những phân tích, nhận định nêu trên, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị đơn, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Án phí dân sự sơ thẩm: Cấp sơ thẩm đã tỉnh đúng, nên không xem xét lại.

[5] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm số100/2019/DS-ST ngày 28-11- 2019 của Tòa án nhân dân thành phố V.

- Căn cứ Điều 34, khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585 và Điều 592 Bộ luật dân sự;

- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M;

1. Buộc bà Phạm Thị H phải công khai xin lỗi cháu Đỗ Quý T, ông Đỗ Thành H và bà Nguyễn Thị M trên trang mạng xã hội mà bà H đã đăng tải là mạng Facebook - Chợ Vũng Tàu .

2. Buộc bà Phạm Thị H phải có nghĩa vụ bồi thường cho cháu Đỗ Quý T, bà Nguyễn Thị M và ông Đỗ Thành H số tiền 7.450.000đ (Bảy triệu, bốn trăm năm mươi nghìn đồng) tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm (Số tiền này do bà Nguyễn Thị M đại diện nhận).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thanh toán số tiền nêu trên cho người được thi hành án thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải thanh toán thêm cho người được thi hành án số tiền lãi theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3. Án phí sơ thẩm: Bà Phạm Thị H phải chịu 372.500đ (Ba trăm bảy mươi hai nghìn, năm trăm đồng).

4. Án phí phúc thẩm: bà H phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền đã đóng tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 0003459 ngày 16-12-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án có hiệu lực kể từ ngày tuyên án ( Ngày 29-4-2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 31/2020/DS-PT

Số hiệu:31/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về