Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 233/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CN THƠ

BẢN ÁN 233/2023/DS-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Ngày 25 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 449/2023/TLST-DS ngày 20 tháng 7 năm 2023 về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 688/2023/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Lê Hữu Đ, sinh năm 1999.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu Đ1, sinh năm 1965 (Có mặt).

Cùng địa chỉ: Số B, đường T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ (Văn bản ủy quyền ngày 18/8/2023).

- Bi đơn:

1/ Công ty TNHH X Địa chỉ: Số c, tỉnh lộ 923, ấp M, xã M, huyện P, thành phố Cần Thơ.

Đại diện theo ủy quyền:Nguyễn Thị Kiều T, sinh năm 1982 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Số H, ấp S, xã Đ, thành phố N, tỉnh Hậu Giang (Văn bản ủy quyền ngày 24/8/2023).

2/ Ông Võ Hoàng H, sinh năm 1981 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp T, xã G, huyện P, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu Đ1 trình bày:

Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 31/5/2021 ông Võ Hoàng H điều khiển xe ô tô mang biển số 65C - X (Do Công ty TNHH Đ2 đứng tên chủ sở hữu phương tiện) lưu thông hướng từ cầu C về nút giao thông IC4, khi lưu thông đến tuyến đường P thuộc khu vực Y, phường L, quận C, thành phố Cần Thơ thì bị mất lái dẫn đến đụng vào phương tiện của ông Nguyễn Lê Hữu Đ gây ra hư hỏng về tài sản.

Qua quá trình giải quyết vụ tai nạn cũng như sự thỏa thuận hỗ trợ theo trình bày của Nguyễn Thị Kiều T1 - đại diện Công ty TNHH Đ2 và ông Võ Hoàng H tại cơ quan công an quận C. Tuy nhiên thì nhiều lần hứa hẹn khắc phục nhưng vẫn không thực hiện. Vì vậy ông Nguyễn Lê Hữu Đ yêu cầu Tòa án buộc ông Võ Hoàng H và Công ty TNHH Đ2 liên đới bồi thường thiệt hại số tiền 36.146.000 đồng (Ba mươi sáu triệu, một trăm bốn mươi sáu triệu đồng) cho ông Nguyễn Lê Hữu Đ.

* Bi đơn Công ty TNHH Đ2 và ông Võ Hoàng H: Mặc dù, đã được Tòa án triệu hợp lệ nhiều lần nhưng không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên không rõ ý kiến.

Đồng thời, đại diện theo của ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Ti phiên tòa, - Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu Đ1 trình bày:

+ Rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc ông Võ Hoàng H liên đới bồi thường thiệt hại với Công ty TNHH X + Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Lê Hữu Đ buộc Công ty TNHH X1 thiệt hại tai nạn giao thông do ông Võ Hoàng H gây ra với tổng số tiền 36.026.000 đồng. Trong đó, 32.734.000 đồng tiền sửa xe ô tô BKS 65C- X; tiền cẩu xe 2.500.000 đồng và tiền gửi xe trong thời gian giải quyết của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận C là 792.000 đồng.

- Ý kiến của đại diện Viện kim sát:

+ Về tuân theo pháp luật tố tụng: Việc thụ lý, giải quyết của Tòa án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp. Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án tuân theo pháp luật; Nguyên đơn tham gia tố tụng chấp hành pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án là đúng theo quy định. Bị đơn mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên việc Hội đồng xét xử vẫn tiến hành giải quyết vụ án là phù hợp với theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

+ Về giải quyết vụ án: Từ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở để chứng minh ngày 31/5/2021 ông Võ Hoàng H là nhân viên của Công ty TNHH Đ2 điều khiển xe ô tô BKS 65C-X theo sự phân công nhiệm vụ của Công ty mất lái dẫn đến va chạm đối với xe ô tô BKS 65C-X của ông Nguyễn Lê Hữu Đ gây thiệt hại với tổng số tiền 36.026.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc Công ty TNHH X1 thiệt hại với số tiền 36.026.000 đồng, theo đúng quy định tại Điều 584, Điều 589, Điều 597 Bộ luật Dân sự năm 2015. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc ông Võ Hoàng H liên đới bồi thường thiệt hại với Công ty TNHH X

NỘI DUNG VỤ ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn ông Nguyễn Lê Hữu Đ khởi kiện yêu cầu buộc bị đơn Công ty TNHH Đ2 và ông Võ Hoàng H liên đới bồi thường thiệt hại số tiền 36.146.000 đồng. Quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” thuộc thẩm quyền của thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều theo quy định tại khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm d khoản 1 Điều 40 của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng:

- Bị đơn Công ty TNHH Đ2 và ông Vồ Hoàng H được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần 2 nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu Đ1 rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc ông Võ Hoàng H liên đới bồi thường thiệt hại với Công ty TNHH X Xét việc rút lại một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[3.1] Theo Thông báo số 14 ngày 17/4/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận C về việc không khởi tố vụ án hình sự; Biên bản ghi lời khai ông Võ Hoàng H ngày 31/5/2021; Biên bản ghi lời khai bà Nguyễn Thị Kiều T (đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH Đ2) ngày 24/6/2021 thể hiện nội dung như sau: Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 31/5/2021 ông Võ Hoàng H là nhân viên của Công ty TNHH Đ2 đã điều khiển xe ô tô BKS: 65C-X (thuộc quyền sở hữu và theo sự điều động của Công ty) lưu thông hướng từ cầu c về nút giao thông IC4, quận C, thành phố Cần Thơ bị mất lái dẫn đến va chạm với nhiều phương tiện đang lưu thông cùng chiều phía trước dẫn đến nhiều người bị thương và hư hỏng tài sản. Hậu quả 06 người bị thương, 11 phương tiện bị hư hỏng, trong đó có xe ô tô BKS: 65C-X do ông Nguyễn Lê Hữu Đ điều khiển. Xét đây là tình tiết không cần phải chứng minh theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3.2] Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu buộc Công ty TNHH Đ2 có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Căn cứ Điều 597 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”. Xét ngày 31/5/2021, ông Võ Hoàng H điều khiển xe ô tô BKS: 65C-X dẫn đến việc gây tai nạn giao thông là thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Công ty TNHH X Do đó, yêu cầu buộc Công ty TNHH Đ2 có trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nguyên đơn là có cơ sở để chấp nhận.

Sau khi thực hiện xong trách nhiệm bồi thường Công ty TNHH Đ2 có quyền yêu cầu ông Võ Hoàng H phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.

[3.3] Thiệt hại thực tế của ông Nguyễn Lê Hữu Đ gồm các khoản như sau:

- Phiếu thu tiền mặt ngày 13/10/2021 của Công ty Cổ phần Ô, chi nhánh C thể hiện tiền sửa xe ô tô BKS: 65C-X là 32.734.000 đồng.

- Phiếu thu ngày 24/6/2021 của Công ty TNHH MTV C1, tiền cẩu xe là 2.500.000 đồng.

- Hóa đơn giá trị gia tăng số 0154446 ngày 24/6/2021 của Công ty Cổ phần B, tiền giữ xe là 792.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền ông Nguyễn Lê Hữu Đ yêu cầu bồi thường 36.026.000 đồng là có cơ sở, phù hợp với quy định tại Điều 584, Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 2, khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

[4] Án phí dân sự sơ thm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận, nguyên đơn được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[5] Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

+ Việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa cũng như đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.

+ Nội dung giải quyết vụ án: Với những phân tích nêu trên về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung này là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm d khoản 1 Điều 40, Điều 92, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 584, Điều 589, Điều 597, Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 2, khoản 1 Điều 6, Điều 12 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Lê Hữu Đ.

Buộc bị đơn Công ty TNHH X2 bồi thường cho ông Nguyễn Lê Hữu Đ tổng số tiền là 36.026.000 đồng (Ba mươi sáu triệu, không trăm hai mươi sáu nghìn đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả; lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc ông Võ Hoàng H liên đới bồi thường với Công ty TNHH X 3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Bị đơn Công ty TNHH X2 chịu 1.801.000 đồng (Một triệu, tám trăm lẽ một nghìn đồng).

- Nguyên đơn ông Nguyễn Lê Hữu Đ được nhận lại 904.000 đồng (Chín trăm lẻ bốn nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0001245 ngày 21/6/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết), để yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 233/2023/DS-ST

Số hiệu:233/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về