Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 153/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 153/2022/DS-ST NGÀY 24/08/2022 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Trong các ngày 18 và ngày 24 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 252/2017/TLST-DS ngày 06/10/2017 về việc: “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 345/2022/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 5 năm 2022; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 491/2022/QĐST-DS ngày ngày 28 tháng 6 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 605/2022/QĐST-DS ngày ngày 20 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Hoàng Đức A, sinh năm 1989 Địa chỉ: X Tổ 1, Khu phố Đ, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Ngọc Phương Tr, sinh năm 1988 (Có mặt) Địa chỉ: Y đường Bến Vân Đồn, Phường 10, Quận 4, Tp. Hồ Chí Minh. (Văn bản ủy quyền ngày 24/10/2018)

Bị đơn:

1/ Công ty TNHH dịch vụ thương mại trang trí nội thất L Địa chỉ: Số Z Lô A18-2 Đường N, Ấp 5, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Phạm Thị H, sinh năm 1991 (Có mặt)

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Lê D (Vắng mặt) Địa chỉ: Số Z Lô A18-2 Đường N, Ấp 5, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Công ty TNHH MTV CHV Địa chỉ: Lô H-07 Đường A, KCN Long Hậu, Ấp 3, xã Long Hậu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền:

- Bà Trần Thị Thủy T (Có mặt)

- Bà Hồ Thanh Th (Vắng mặt)

Địa chỉ: Phòng K Số 9 Đường P, phường Đ, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Văn bản ủy quyền ngày 09/01/2021).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty TNHH MTV CHV: Bà Đinh Thị Quỳnh N – Luật sư Công ty luật TNHH MTV An Luật - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt) Địa chỉ: Phòng K Số 9 Đường P, phường ĐaKao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Nguyễn Lê D (Vắng mặt) Địa chỉ: Số Z Lô A18-2 Đường Nguyễn Hữu Thọ, Ấp 5, xã P, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh

2/ Công ty TNHH xây dựng và kỹ thuật cơ khí Thành Đạt Địa chỉ: U Tổ 16, Ấp 1, xã H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Hữu C, sinh năm 1977 (Xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện ngày 24 tháng 7 năm 2017, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà Trần Ngọc Phương Tr là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ông Hoàng Đức A là thợ cơ khí, là người lao động của Công ty TNHH xây dựng và kỹ thuật cơ khí Thành Đạt (Sau đây gọi tắt là Công ty Thành Đạt) theo hợp đồng thời vụ với mức lương 400.000 đồng/ngày do người sử dụng lao động bao cơm trưa, tối và chỗ ở. Chế độ làm việc: Làm nguyên tháng và được nghỉ ngày chủ nhật.

Vào hồi 16 giờ ngày 22/3/2017 khi đang làm việc tại khu vực hàn trong công trình do Công ty TNHH MTV CHV (Sau đây gọi tắt là Công ty CHV) làm chủ đầu tư thì có một người đàn ông khoảng 25 – 27 tuổi là công nhân của Công ty TNHH dịch vụ thương mại trang trí nội thất L (Sau đây gọi tắt là Công ty L) cũng đang thi công công trình tại Công ty CHV đến khu vực ông Hoàng Đức A đang làm việc và người này đã tự ý dùng máy cắt đa năng để cắt đinh (máy cắt này do Công ty CHV trang bị cho ông Hoàng Đức A) mà không có ý kiến của ông Hoàng Đức A làm đinh bắn vào mắt của ông Hoàng Đức A gây thương tích. Sau đó ông Hoàng Đức A được mọi người đưa vào bệnh viện huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cứu rồi chuyển đến Bệnh viện mắt Thành phố Hồ Chí Minh để điều trị.

Khi sự việc xảy ra thì chính quyền địa phương, cơ quan có thẩm quyền cũng không lập biên bản vì không có ai báo tin cho các cơ quan này. Đến ngày 23/3/2017 ông Hoàng Đức A làm bản tường trình và có đóng dấu treo của Công ty CHV trên góc trái của bản tường trình này. Tại Biên bản giám định y khoa số 0024-17/GĐYK- YC ngày 22/6/2017 của Hội đồng giám định y khoa Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Ông Hoàng Đức A bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể vĩnh viễn là 31%.

Ông Hoàng Đức A đã điều trị thương tật hết 10.788.092 đồng (Trong đó tiền mổ mắt là 6.874.000 đồng, tiền viện phí là 3.984.092 đồng). Để điều trị và phục hồi vết thương ông Hoàng Đức A phải nghỉ làm việc 06 tháng nên bị mất thu nhập 60.000.000 đồng (Mỗi tháng 10.000.000 đồng). Tiền bù đắp thiệt hại về sức khỏe là 50.000.000 đồng. Tổng cộng thiệt hại 120.788.092 đồng. Ông Hoàng Đức A đã nhiều lần yêu cầu các Công ty có liên quan bồi thường thiệt hại nhưng Công ty CHV, Công ty L và Công ty Thành Đạt đều không thực hiện.

Do vậy, ông Hoàng Đức A khởi kiện yêu cầu bị đơn là Công ty L, Công ty CHV và trong quá trình tự khai, hòa giải ông Hoàng Đức A còn yêu cầu cả Công ty Thành Đạt phải liên đới bồi thường cho ông Hoàng Đức A 120.788.092 đồng.

Công ty TNHH dịch vụ thương mại trang trí nội thất L là bị đơn do ông Nguyễn Lê D đại diện trình bày:

Công ty L không đồng ý bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn vì ông Hoàng Đức A không phải người lao động của công ty L, Công ty L và Công ty CHV không ký kết bất kỳ hợp đồng nào do đó không có căn cứ xác định người gây ra tai nạn cho ông Hoàng Đức A là người lao động của công ty L nên không thể yêu cầu công ty L phải bồi thường.

Công ty MTV CHV là bị đơn do người đại diện theo ủy quyền là bà Trần Thị Thủy T trình bày:

Công ty CHV không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Đức A. Vì Công ty CHV là chủ đầu tư còn Công ty Thành Đạt là nhà thầu.

Công ty TNHH xây dựng và kỹ thuật cơ khí Thành Đạt là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan do ông Lê Hữu Cẩn đại diện trình bày:

Công ty Thành Đạt không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì Công ty Thành Đạt là nhà thầu chính của Công ty CHV. Công ty L là nhà thầu phụ do Công ty CHV chỉ định. Người gây ra tại nạn cho ông Hoàng Đức A là người lao động của Công ty L. Do đó, sự việc không liên quan đến Công ty Thành Đạt.

Ý kiến của ông Nguyễn Lê D là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Lê D là nhân viên kỹ thuật của Công ty L. Ông Duy không biết ông Hoàng Đức A là ai và cũng không biết gì về Công ty CHV. Ông Duy không được Công ty L phân công phụ trách công trình tại công trình của Công ty CHV. Ông Duy không biết gì về việc ông Hoàng Đức A bị tại nạn vì thời điểm xảy ra tai nạn ông Duy không có mặt tại nơi xảy ra tai nạn. Do đó, ông không có ý kiến hay yêu cầu gì trong vụ án này.

Tại phiên tòa ngày 18/8/2022:

Nguyên đơn xác định: Chỉ yêu cầu Công ty L và Công ty CHV bồi thường chứ không yêu cầu Công ty Thành Đạt phải bồi thường do Công ty Thành Đạt không gây ra thiệt hại và không phải chịu trách nhiệm do không liên quan.

Do trước ngày xét xử, Công ty L đã hỗ trợ cho nguyên đơn 40.000.000 đồng nên tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện đối với Công ty L. Chỉ còn yêu cầu Tòa án buộc Công ty CHV phải bồi thường cho nguyên đơn 58.984.000 đồng (Bao gồm tiền viện phí: 3.984.092 đồng, tiền mất thu nhập: 30.000.000 đồng, chi phí phục hồi chức năng: 25.000.000 đồng). Thanh toán làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Công ty TNHH dịch vụ thương mại trang trí nội thất L là bị đơn do bà Phạm Thị H là người đại diện theo pháp luật trình bày:

Công ty L không có yêu cầu phản tố. Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn đã rút yêu cầu khởi kiện đối với Công ty L nên Công ty L không có ý kiến gì. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Công ty MTV CHV là bị đơn do bà Trần Thị Thủy T là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Công ty CHV không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Đức A. Vì Công ty CHV là chủ đầu tư còn Công ty Thành Đạt là nhà thầu chính, Công ty L là nhà thầu phụ. Ông Hoàng Đức A không phải là người lao động của công ty CHV. Trong vụ việc này, nguyên đơn cũng đã xác định người gây ra tai nạn là người lao động của Công ty L, mà giữa công ty L và Công ty CHV không ký kết bất kỳ hợp đồng nào Mặt khác, giữa ông Hoàng Đức A và Công ty L đã thỏa thuận được việc bồi thường thiệt hại. Do đó, căn cứ vào Luật Xây dựng thì Công ty CHV không có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến như sau:

Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã đảm bảo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng các quy định của pháp luật về tố tụng, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các vản bản tố tụng nhưng có người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp vắng mặt ở phiên tòa lần thứ hai mà không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết yêu cầu của nguyên đơn đối với Công ty L và bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc Công ty CHV bồi thường thiệt hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

{1} Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Ông Hoàng Đức A khởi kiện yêu Công ty L và Công ty CHV bồi thường thiệt hại. Đây là tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Trong vụ án này bị đơn gồm có Công ty L và Công ty CHV. Công ty L có trụ sở tại huyện Nhà Bè nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và điểm h khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự.

{2} Về việc vắng mặt người tham gia tố tụng:

- Công ty Thành Đạt có đơn xin giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt Công ty Thành Đạt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Bà Hồ Thanh Th là người đại diện theo ủy quyền của Công ty CHV; Bà Đinh Thị Quỳnh Như là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty CHV; Ông Nguyễn Lê D là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà Thảo, bà Như, ông Duy theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

{3} Về các yêu cầu của các đương sự:

3.1. Mặc dù trong đơn khởi kiện, nguyên đơn không yêu cầu Công ty Thành Đạt phải bồi thường nhưng trong quá trình tự khai, hòa giải và chuẩn bị xét xử thì nguyên đơn lại yêu cầu công ty Thành Đạt phải liên đới bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên nguyên đơn không làm đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện và tại phiên tòa nguyên đơn xác định không yêu cầu Công ty Thành Đạt phải bồi thường. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết đối với Công ty Thành Đạt.

3.2. Tại phiên tòa, nguyên đơn tự nguyện rút yêu cầu khởi kiện đối với Công ty L là bị đơn. Công ty L cũng không có yêu cầu phản tố. Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với Công ty L theo quy định tại diểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự.

3.3. Đối với yêu cầu của nguyên đơn đề nghị Tòa án buộc Công ty CHV phải bồi thường 58.984.000 đồng (Bao gồm tiền viện phí: 3.984.092 đồng, tiền mất thu nhập: 30.000.000 đồng, chi phí phục hồi chức năng:25.000.000 đồng). Thanh toán làm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Hội đồng xét xử xét:

Căn cứ bản tường trình tai nạn có đóng dấu treo của Công ty CHV trên góc trái của bản tường trình lập ngày 23 tháng 3 năm 2017 và sự thừa nhận của các đương sự cũng như nội dung Biên bản giám định y khoa số 0024-17/GĐYK-YC ngày 22/6/2017 của Hội đồng giám định y khoa Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

Ông Hoàng Đức A bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể vĩnh viễn là 31%. Cho thấy sự việc ngày 23/7/2017 ông Hoàng Đức A bị thiệt hại về sức khỏe trong quá trình lao động là có thật.

Ông Hoàng Đức A cũng xác định ông là người lao động của Công ty Thành Đạt chứ không phải là người lao động của Công ty CHV.

Ông Hoàng Đức A cũng xác định người gây ra thiệt hại sức khỏe của ông không phải là người lao động của Công ty CHV mà là người lao động của Công ty L.

Nguyên đơn cho rằng, Công ty CHV và Công ty L có ký kết hợp đồng xây dựng nhưng cả Công ty CHV và Công ty L đều không thừa nhận điều này mà nguyên đơn không cũng có chứng cứ gì chứng minh. Hơn nữa, ông Hoàng Đức A cũng không cung cấp được thông tin nhân thân của người gây ra tai nạn với ông và các tài liệu, chứng cứ chứng minh rằng người đó là người lao động của Công ty L. Trong khi người đại diện theo pháp luật của Công ty L cũng không thừa nhận người gây tai nạn cho ông Hoàng Đức A là người lao động của Công ty L.

Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

Tại mục 1 phần I của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định về nguyên tắc chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây: Phải có thiệt hại xảy ra; Phải có hành vi trái pháp luật; Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật; Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.

Từ những căn cứ và phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét do nguyên đơn đã xác định nguyên đơn là người lao động của Công ty Thành Đạt, không phải là người lao động của Công ty CHV, nguyên đơn cũng không chứng minh được người gây ra thiệt hại cho nguyên đơn là người lao động của Công ty CHV. Vì vậy, Công ty CHV không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Do đó, Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc Công ty CHV phải bồi thường 58.984.000 đồng (Bao gồm tiền viện phí: 3.984.092 đồng, tiền mất thu nhập: 30.000.000 đồng, chi phí phục hồi chức năng:25.000.000 đồng).

{4}Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 5.000.000 đồng (Đã giải quyết xong).

{5}Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 2.949.200 đồng nguyên đơn phải chịu do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nhưng căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 thì ông Hoàng Đức A được miễn nộp án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm h khoản 1 Điều 40; Điều 91; khoản 1 Điều 146; khoản 5 Điều 147; Điều 217; Điều 227; Điều 266, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 584 Bộ luật dân sự;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016;

Tuyên xử:

1/ Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với Công ty TNHH dịch vụ thương mại trang trí nội thất L.

2/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc Công ty TNHH MTV CHV phải bồi thường 58.984.000 đồng.

3/ Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Hoàng Đức A được miễn nộp án phí.

4/ Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo là 15 (Mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

376
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 153/2022/DS-ST

Số hiệu:153/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:24/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về