Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 141/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 141/2023/DS-PT NGÀY 05/09/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Trong ngày 05 tháng 9 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh V xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 113/2023/TLPT-DS ngày 14 tháng 7 năm 2023 về "Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng".

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 47/2023/DS-ST ngày 22 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh V bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 140/2023/QĐ-PT ngày 19 tháng 7 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

1.1. Bà Lê Thị Kim H, sinh năm 1945 (có mặt).

1.2. Chị Phan Thị Lê C, sinh năm 1976 (có mặt).

Người đại diện của bà Lê Thị Kim H, theo văn bản ủy quyền ngày 23/3/2023: Chị Phan Thị Lê C, sinh năm 1982 (có mặt).

Cùng địa chỉ: số 11/4, đường số 21, khu phố 4, phường Hiệp Bình C, TP TĐ, TPHCM.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C: Ông Phạm Quang Th, là luật sư của Công ty Luật TNHH Tr, thuộc đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Ngh, sinh năm 1961.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Nguyễn Văn Ngh, theo văn bản ủy quyền ngày 28/3/2023: Anh Nguyễn Huỳnh Hải Đ, sinh năm 1994 (có mặt).

Cùng địa chỉ: số 4A, khóm Mỹ Thuận, phường Tân Hội, thành phố V, tỉnh V.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn ông Nguyễn Văn Ngh: Ông Trần Hồ N, là luật sư của Công ty Luật TNHH MTV T và cộng sự, thuộc đoàn Luật sư tỉnh V (có mặt).

3. Người kháng cáo: Bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C, là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Trong đơn khởi kiện ngày 11/11/2022 của nguyên đơn là bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C và trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phan Thị Lê C là nguyên đơn và là người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị Kim H trình bày:

Năm 2017, ông Nguyễn Văn Ng khởi kiện bà Lê Thị Kim H tại Tòa án nhân dân thành phố V về việc tranh chấp quyền sử dụng đất. Bản án số: 42/2018/DS-ST, ngày 27/7/2018 của Tòa án nhân dân thành phố V đã xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Ng và buộc bà H, cụ thể là buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà H gồm: Ông Nguyễn Văn L, anh Nguyễn Lê Công D và anh Nguyễn Lê Hữu T có nghĩa vụ phải tháo dỡ, di dời hàng rào trụ đá, tường lửng rào lưới B40, chặt đốn cây trồng để giao trả diện tích đất 3,8m2, thuộc chiết thửa số 108-2, đất ở tại nông thôn cho ông Ng. Bà H làm đơn kháng cáo bản án số 42/2018-DS-ST ngày 27/7/2018 của Tòa án nhân dân thành phố V.

Bản án số 197/2019/DS-PT, ngày 13/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh V đã xét xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Ng về việc yêu cầu người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị đơn bà Lê Thị Kim H gồm: Ông Nguyễn Văn L, anh Nguyễn Lê Công D và anh Nguyễn Lê Hữu T trả lại cho ông Ng phần đất diện tích 3,8m2, đất ở tại nông thôn, thuộc thửa số 109, tờ bản đồ số 3, do bà Lê Thị Kim H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tọa lạc ấp Mỹ Thuận, xã Tân Hội, thành phố V và di dời hàng rào, trụ đá, các cây trồng trên phần đất này.

Từ việc tranh chấp đất giữa ông Ng và bà H, để bảo vệ phần đất hương hỏa của cụ Sao (cha bà H) để lại nên bà H và chị Ch đã phải bỏ công sức, chi phí đi từ thành phố Hồ Chí Minh về V để tham gia vào vụ án này. Ngoài ra, trong quá trình đi lại để giải quyết vụ án, bà H đã bị tai nạn dẫn đến phải mất rất nhiều chi phí cho việc khám chữa bệnh do bị tại nạn, cụ thể các chi phí mà bà H và chị Ch phải bỏ ra khi tham gia vụ án bao gồm:

Năm 2013: Ch phí tiền xe và các chi phí phát sinh khác cho việc đi lại từ thành phố Hồ Chí Minh về V và ngược lại, số lần đi về là 05 lần ( tháng 5, 7, 9, 10, 11, 12), các khoản như pho to và chi phí chứng thực tài liệu, tổng cộng số tiền là 14.652.000 đồng.

Năm 2014: Số tiền là 40.002.000 đồng, trong đó: Viết đơn, pho to hồ sơ kèm theo đơn là 3.550.000 đồng; chi phí tiền xe đi lại từ thành phố Hồ Chí Minh về V và ngược lại 20 lần, chi phí đi lại trong nội ô thành phố V là 4.000.000 đồngl chi phí đi lại đến các cơ quan có thẩm quyền của tỉnh V để yêu cầu giải quyết việc tranh chấp là 3.300.000 đồng; chi phí trích lục hồ sơ liên quan đến nguồn gốc quyền sử dụng đất tranh chấp là 3.800.000 đồng; chi phí đo đạc bản đồ khu đất tranh chấp là 563.000 đồng; chi phí làm việc tại Văn phòng đăng ký đất đai thành phố V (4 lần) là 3.139.000 đồng; chi phí điều trị do tai nạn giao thông khi đi lại để giải quyết việc tranh chấp quyền sử dụng đất là 21.650.000 đồng.

Năm 2015: Số tiền là 13.450.000 đồng, trong đó: Ch phí gửi bưu phẩm đến các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là 3.600.000 đồng; chi phí cho tiền vé xe đi lại từ thành phố Hồ Chí Minh về V và ngược lại, chi phí tiền di chuyển trong nội ô thành phố V 5 lần là 5.400.000 đồng; chi phí cho việc kéo hàng rào khu đất tranh chấp là 4.450.000 đồng.

Năm 2016: Số tiền là 810.000 đồng, trong đó: Ch phí cho tiền vé xe đi lại từ thành phố Hồ Chí Minh về V và ngược lại (2 lần) là 420.000 đồng; chi phí thuê người viết đơn, làm giấy ủy quyền là 390.000 đồng.

Năm 2017: Số tiền là 18.250.000 đồng, trong đó: Ch phí tiền vé xe đi từ thành phố Hồ Chí Minh về V và ngược lại (6 lần) là 7.200.000 đồng; chi phí thuê người soạn thảo đơn, làm giấy ủy quyền, pho to và gửi tài liệu là 11.000.000 đồng.

Năm 2018: Số tiền là 24.731.000 đồng, trong đó: Ch phí tiền vé xe đi từ thành phố Hồ Chí Minh về V và ngược lại (15 lần, trong đó có 06 lần đi 02 người, 09 lần đi 01 người) là 4.650.000 đồng; chi phí thuê người soạn thảo đơn, làm giấy ủy quyền, pho to và gửi tài liệu (42 lần) đến các cơ quan có thẩm quyền của tỉnh và trung ương là 20.081.000 đồng.

Năm 2019: Số tiền là 26.105.000 đồng, trong đó: Ch phí tiền vé xe đi từ thành phố Hồ Chí Minh về V và ngược lại (08 lần đi và về 02 người) là 4.350.000 đồng; chi phí thuê người soạn đơn, pho to và gửi tài liệu (19 lần) là 21.750.000 đồng.

Các khoản phát sinh khác: Số tiền là 125.000.000 đồng, trong đó: Ch phí nhờ luật sư tư vấn mỗi lần nộp đơn (trong 07 năm) là 30.000.000 đồng; chi phí điều trị sức khỏe 02 lần bị thương do về V tham gia phiên tòa bị tai nạn, được điều trị tại Bệnh viện Loan Trâm V và điều trị thương tích do ảnh hưởng di chứng vì bị cán bộ Công an phường 4, thành phố V xâm hại thân thể tại Tòa án nhân dân thành phố V, theo giấy triệu tập của Tòa án là 15.000.000.000 đồng; tổn hại sức khỏe trong 07 năm do đi lại từ thành phố Hồ Chí Minh về V là 30.000.000 đồng; tổn hại tinh thần do việc tranh chấp đất với ông Ng và những áp lực ông Ng tạo ra trong quá trình tranh chấp đất giữa hai gia đình là 30.000.000 đồng; chi phí ăn uống khi đi về V để tham gia các buổi làm việc với Tòa án các cấp và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan là 20.000.000 đồng. Tổng các khoản chi phí là 263.000.000 đồng.

Bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn Ng phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà H và chị Ch các khoản chi phí phát sinh từ việc tranh chấp quyền sử dụng đất không có căn cứ của ông Ng với bà Lê Thị Kim H mà bà H và chị Ch đã phải bỏ ra để phục vụ cho quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân thành phố V và Tòa án nhân dân tỉnh V và các khoản thiệt hại về mặt tinh thần với số tiền là 263.000.000 đồng.

Tại bản khai ý kiến ngày 28/3/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Nguyễn Văn Ng là anh Nguyễn Huỳnh Hải Đ trình bày: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ nên không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H và chị Ch.

Bản án dân sự sơ thẩm số 47/2023/DS-ST ngày 22 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh V đã xử:

Căn cứ vào khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 266, khoản 1 Điều 273, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009;

Căn cứ vào Điều 584 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Tuyên xử:

1. Về nội dung: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn Ng phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C các khoản chi phí phát sinh từ việc tranh chấp quyền sử dụng đất không có căn cứ của ông Ng với bà Lê Thị Kim H mà bà H và chị Ch đã phải bỏ ra để phục vụ cho quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân thành phố V và Tòa án nhân dân tỉnh V và các khoản thiệt hại về mặt tinh thần với số tiền là 263.000.000 đ (hai trăm sáu mươi ba triệu đồng).

2. Về án phí: Bà Lê Thị Kim H là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm. Chị Phan Thị Lê C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 6.575.000 đ (sáu triệu năm trăm bảy mươi năm ngàn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 3.287.000 đồng, theo biên lai số 0001839 của Ch cục thi hành án dân sự thành phố V; chị Ch còn phải nộp 3.287.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Ngày 03/6/2023, bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C kháng cáo với nội dung: yêu cầu sửa bản án sơ thẩm số 47/2023/DS-ST ngày 22/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố V, theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C trình bày: Yêu cầu ông Ng phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà Lê Thị H và chị Phan Thị Lê C các khoản chi phí phát sinh từ việc tranh chấp quyền sử dụng đất không có căn cứ của ông Ng với bà Lê Thị Kim H mà bà H và chị Ch đã phải bỏ ra để phục vụ cho quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân thành phố V và Tòa án nhân dân tỉnh V và các khoản thiệt hại về mặt tinh thần với số tiền là 263.000.000 đồng. Căn cứ cho yêu cầu này là vì phần đất ông Ng tranh chấp với bà H có nguồn gốc của cha mẹ bà H để lại, các anh chị em trong gia đình đã thống nhất làm di sản thờ cúng chung nhưng giao cho bà H đứng tên quyền sử dụng đất. Bà H là người hiểu biết về nguồn gốc phần đất này nên đã nhận ủy quyền tham gia tố tụng trong vụ án.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 584, 585 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì bà H và chị Ch yêu cầu ông Ng bồi thường là có căn cứ.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn Ng trình bày: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ nên không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H và chị Ch.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 584 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng: Tất cả đều tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử phúc thẩm.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 47/2023/DS-ST ngày 22/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố V.

Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lê Thị Kim H là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm; chị Phan Thị Lê C phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ được thể hiện tại hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa; Trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ; ý kiến trình bày của các đương sự; Căn cứ vào kết quả tranh luận và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo ngày 03/6/2023, bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C còn trong hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự nên được chấp nhận.

[2] Về nội dung:

Trước đây, bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C là người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn L, anh Nguyễn Lê Hữu T, anh Nguyễn Lê Công D là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn là bà Lê Thị Kim H, trong vụ kiện “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” với nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Ng. Bản án dân sự phúc thẩm số 197/2019/DS-PT ngày 13/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh V đã xét xử là không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Ng.

Nay bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn Ng phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà H và chị Ch các khoản chi phí phát sinh từ việc tranh chấp quyền sử dụng đất không có căn cứ của ông Ng với bà Lê Thị Kim H mà bà H và chị Ch đã phải bỏ ra để phục vụ cho quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân thành phố V và Tòa án nhân dân tỉnh V và các khoản thiệt hại về mặt tinh thần với số tiền là 263.000.000 đồng.

Xét thấy;

Khoản 1 Điều 584 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.” Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số: 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định:

“1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 584 của Bộ luật Dân sự năm 2015 phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây:

a) Có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác;

b) Có thiệt hại xẩy ra là thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần;

Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được của chủ thể bị xâm phạm, bao gồm tổn thất về tài sản mà không khắc phục được; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp khác bị xâm phạm.

Thiệt hại về tinh thần là tổn thất tinh thần do bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích nhân thân khác mà chủ thể bị xâm phạm hoặc người thân thích của họ phải chịu và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất đó.

c) Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xẩy ra và hành vi xâm phạm. Thiệt hại xẩy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi xâm phạm và ngược lại hành vi xâm phạm là nguyên nhân gây là thiệt hại”.

Sự việc ông Ng khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất với bà Lê Thị Kim H là quyền của cá nhân được quy định tại Điều 4 của Bộ luật tố tụng dân sự. Ông Nguyễn Văn L, anh Nguyễn Lê Hữu T, anh Nguyễn Lê Công D tham gia tố tụng với tư cách là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà H để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C chỉ là người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn L, anh Nguyễn Lê Hữu T, anh Nguyễn Lê Công D. Như vậy, bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C yêu cầu ông Ng bồi thường thiệt hại nhưng bà H và chị Ch không chứng minh được ông Ng có hành vi xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của bà H và chị Ch nên yêu cầu của bà H và chị Ch là không có căn cứ chấp nhận.

Cấp sơ thẩm giải quyết là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật nên không chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 47/2023/DS-ST, ngày 22 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố V, V.

Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lê Thị Kim H là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm; chị Phan Thị Lê C phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng).

[3] Xét quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là không có căn cứ chấp nhận.

[4] Xét quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là có căn cứ chấp nhận.

[5] Xét đề nghị của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh V là có căn cứ chấp nhận.

[6] Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 47/2023/DS-ST, ngày 22 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh V.

Căn cứ vào khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 266, khoản 1 Điều 273, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 584 của Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009;

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn Ng phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà Lê Thị Kim H và chị Phan Thị Lê C các khoản chi phí phát sinh từ việc tranh chấp quyền sử dụng đất không có căn cứ của ông Ng với bà Lê Thị Kim H mà bà H và chị Ch đã phải bỏ ra để phục vụ cho quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân thành phố V và Tòa án nhân dân tỉnh V và các khoản thiệt hại về mặt tinh thần với số tiền là 263.000.000 đ (hai trăm sáu mươi ba triệu đồng).

2. Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị Kim H là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm. Chị Phan Thị Lê C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 6.575.000 đ (sáu triệu năm trăm bảy mươi năm ngàn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 3.287.000 đồng, theo biên lai số 0001839 của Ch cục thi hành án dân sự thành phố V; chị Ch còn phải nộp 3.287.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lê Thị Kim H là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm; chị Phan Thị Lê C phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng). Chị Phan Thị Lê C đã nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng), theo biên lai thu tiền số N0 0002151 ngày 14/6/2023 của Ch cục thi hành án dân sự thành phố V nên được trừ qua.

3. Về nghĩa vụ thi hành án:

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan Thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải chịu thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 141/2023/DS-PT

Số hiệu:141/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:05/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về