TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 102/2022/DS-PT NGÀY 26/08/2022 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Ngày 26 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 18/2021/TLPT-DS ngày 03 tháng 3 năm 2021, về việc: “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, do Bản án dân sự sơ thẩm số 57/2020/DS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2022/QĐ-PT ngày 09 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1977; Địa chỉ: …, tổ …, khu phố B, phường LBT, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Hùng T, sinh năm 1972; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 09/10/2019); Địa chỉ: ..., khu phố B, phường LB, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc T - Luật sư Văn phòng Luật sư DN thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ: Số ... HB, phường PT, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Công ty TNHH Du lịch TP; Địa chỉ: Số ... NĐC, phường HT, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1958; là người đại diên theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 02/01/2020); Địa chỉ: Số … TP, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Công Đ, sinh năm 1935 (đã chết ngày 22/02/2022) Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng (là vợ và các con của ông Nguyễn Công Đ):
1.1. Bà Ngô Thị T, sinh năm 1940; Đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án; Địa chỉ: Khu phố B, phường LB, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp của bà Tỉnh: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1977; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 05/11/2019); Địa chỉ: …, tổ …, khu phố B, phường LBT, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
1.2. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1965; Địa chỉ: Thôn ĐH, xã TG, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.
1.3. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1967; Địa chỉ: Thôn YT, xã TG, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Ông Nguyễn Hùng T, sinh năm 1972; Địa chỉ: ..., khu phố B, phường LB, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị T: Ông Nguyễn Hùng T, sinh năm 1972; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 23/5/2022).
2. Cháu Nguyễn Anh T, sinh năm 2008 3. Cháu Nguyễn Anh Q, sinh năm 2012 Người đại diện hợp pháp của cháu Tùng và cháu Quân: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1977 (mẹ ruột) là người đại diện theo pháp luật; Địa chỉ: …, tổ …, khu phố B, phường LBT, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp của bà Vân: Ông Nguyễn Hùng T, sinh năm 1972; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 09/10/2019); Địa chỉ: ..., khu phố B, phường LB, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Bà Nguyễn Thị Ngọc T - Luật sư Văn phòng luật sư DN thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ: Số ... HB, phường PT, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Công ty Cổ phần du lịch và tiếp thị VN (V); Địa chỉ: Số ... P., phường S, quận B, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: Bà Trần Thị Thúy A, sinh năm 1990; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 476/GUQ-VT ngày 24/11/2021); Địa chỉ: Sồ ... NTMK, phường VTS, Quận 3, TP.HCM.
5. Công ty TNHH L Việt Nam Người đại diện hợp pháp: Ông Bùi Quốc T, sinh năm 1979 và ông Phan Hồng N, sinh năm 1990 Là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 23/8/2022).
Cùng địa chỉ liên lạc: Thôn YB, xã DX, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Hùng T là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn bà Nguyễn Thị V.
Những người tham gia tố tụng có mặt ông Nguyễn Hùng T, ông Nguyễn Văn A, Luật sư Nguyễn Thị Ngọc T, ông Bùi Quốc T, ông Phan Hồng N; vắng mặt bà Nguyễn Thị V, bà Ngô Thị T, ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị T, cháu Nguyễn Anh Tùng, cháu Nguyễn Anh Quân, bà Trần Thị Thúy An, trong đó bà Nguyễn Thị Thuý A có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị V và người đại diện hợp pháp trình bày: Chồng bà V là ông Nguyễn Văn T cùng với gia đình được công ty L phối hợp với V chi nhánh Đồng Nai tổ chức cho đi nghỉ dưỡng tại resort S từ ngày 13/7/2019 đến 15/7/2019. Vào lúc 16 giờ 30 ngày 14/7/2019, trong thời gian sinh hoạt tự do, ông Nguyễn Văn T cùng hai con xuống tắm biển trong khu nghỉ dưỡng của resort nhưng không may bị đuối nước.
Khi tai nạn xảy ra, gia đình đã thông báo cho các bên và phía resort để ứng cứu nhưng vì không có một nhân viên cứu hộ nào có mặt tại đó để ứng cứu kịp thời (trong khi tại các quảng cáo và nội qui của resort luôn thể hiện là có đội cứu hộ trực 24/24). Chính vì sự tắc trách và chậm trễ, mặc cho một số du khách và cả đứa con của bà có mặt tại đó gào thét trong tuyệt vọng để cầu cứu nhưng vẫn không có sự xuất hiện của nhân viên cứu hộ nên chồng bà đã ra đi vĩnh viễn.
Phía resort cho rằng ông T tắm biển và mất tích cách khu bãi biển 300m, không thuộc phạm vi bờ biển của resort trong khi các nhân chứng đều khẳng định là ông T tắm ở bãi biển của resort.
S resort đã đưa ra các tiện ích nghỉ dưỡng trong khoảng 20 hạng mục, tại hạng mục số 8 có ghi: bãi biển riêng. Trong khi Công văn số 02/2019/CV-PT ngày 09/8/2019 của công ty TNHH du lịch TP lại khẳng định không kinh doanh khu vực bãi biển phía trước resort. Trong thời gian ông T tắm biển trực diện khu vực resort thì không có bất kì một cảnh báo như cờ đen, cờ đỏ, cờ xanh, hay đài quan sát khu vực bãi biển trực diện khu resort.
Sau vụ tai nạn đuối nước đối với ông Thông, giữa các bên nhiều lần làm việc với nhau giải quyết hậu quả nhưng bị đơn thiếu trách nhiệm và thiện chí bồi thường dẫn đến bức xúc cho gia đình nạn nhân.
Nay bà V yêu cầu Tòa án buộc công ty TNHH du lịch TP nhìn nhận trách nhiệm về cái chết của ông T là đã chết trong khu vực biển thuộc khu vực nghỉ dưỡng của công ty TNHH du lịch TP tại resort S. Bị đơn phải bồi thường tổn thất vật chất và tinh thần tổng cộng là 1.342.245.340 đồng cho bà V, cụ thể như sau: mức lương của ông T thực lãnh cuối cùng là 32.731.815đồng.
- Mai táng phí: 10 tháng lương cơ sở = 1.490.000đồng/tháng x 10 = 14.900.000đồng.
- Tổn thất về tinh thần: 100 tháng lương cơ sở = 149.000.000đồng.
- Chi phí nuôi con đến 18 tuổi: Ông T, bà V có hai con, tính nửa mức lương của ông T cho mỗi con: Cháu Nguyễn Anh T, sinh ngày 24/7/2008, tính đến 18 tuổi là còn 84 tháng: (32.731.815đồng : 3) x 84 = 458.245.410đồng; Cháu Nguyễn Anh Q, sinh ngày 23/4/2012, tính đến 18 tuổi là còn 132 tháng: (32.731.815đồng : 3) x 132 = 720.099.930đồng.
Bị đơn công ty TNHH du lịch TP trình bày: Công ty TNHH du lịch TP chia buồn sâu sắc đối với mất mát quá lớn của nguyên đơn. Qua các chứng cứ, tài liệu cho thấy sự việc xảy ra đối với ông T là rất đáng tiếc, bởi nạn nhân là người trưởng thành, hoàn toàn nhận thức được các rủi ro và các cảnh báo xung quanh. Trong khi đó, bị đơn đã tuân thủ đầy đủ các quy định của cơ quan nhà nước về cứu hộ, cảnh báo nguy hiểm và nội quy an toàn khu vực mà công ty TNHH du lịch TP quản lý. Vào buổi chiều xảy ra sự việc phía bị đơn có treo cờ đen cảnh báo nguy hiểm.
Vùng nước và bãi biển phía ngoài và trước khu nghỉ S không thuộc quyền quản lý, sở hữu của công ty TNHH du lịch TP. Công ty TNHH du lịch TP chỉ được hưởng lợi khoảng không gian nhờ vị trí tiếp giáp liền kề cũng như các khu nghỉ khác gần đó.
Công ty TNHH du lịch TP xác định: Hoàn toàn không có lỗi đối với việc ông Nguyễn Văn T bị đuối nước vào ngày 14/7/2019. Việc du khách đến tắm biển tại các khu nghỉ nói chung, không phải là sử dụng hàng hóa, dịch vụ của khu nghỉ S. Nên thực tế, không có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi của bị đơn và thiệt hại của nguyên đơn theo qui định của pháp luật. Khi xảy ra sự việc, Công ty TNHH du lịch TP đã làm hết trách nhiệm để tìm kiếm nạn nhân, hỗ trợ chi phí cùng gia đình đưa xác nạn nhân về quê an táng. Trong các buổi làm việc với gia đình nguyên đơn, Công ty TNHH du lịch TP cũng có thiện chí, đề xuất tự nguyện hỗ trợ cho gia đình nạn nhân 100.000.000đồng, thể hiện sự quan tâm, nhân đạo của công ty.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty TNHH L Việt Nam trình bày: Sau khi sự việc tai nạn xảy ra, phía công ty đã thực hiện các công việc hỗ trợ cho gia đình ông T, về chế độ của công ty đối ông T: Công ty hỗ trợ cho gia đình ông T khoảng 615.486.000đồng (có cả những khoản bảo hiểm mà công ty mua cho nhân viên, kể cả khoản bảo hiểm tour du lịch, tiền lương hỗ trợ...). Đây là những khoản tiền do công ty chủ động chi trả, hỗ trợ cho cá nhân nằm ngoài chính sách của công ty (Ông T giữ chức vụ trưởng phòng kinh doanh – bộ phận cửa nhôm). Ngoài ra, còn có những khoản chi phí nhỏ khác không kê ra hết. Quan điểm của công ty về sự việc tai nạn là cố gắng làm hết sức mình để nhằm bù đắp phần nào mất mát của gia đình ông T. Về phía khu nghỉ S, Công ty TNHH L cho rằng họ thể hiện sự thiếu thiện chí khi xảy ra tai nạn. Việc bồi thường của resort S đối với gia đình ông Thông là chưa thỏa đáng và không dựa trên cơ sở nào. Mong muốn của công ty đề nghị khu nghỉ S có những khoản bù đắp hợp lý và lời xin lỗi chân thành để gia đình người mất có cuộc sống tốt hơn.
2. Công ty Cổ phần du lịch và tiếp thị giao thông vận tải VN – Vietravel trình bày: Ngày 03/7/2019, công ty V ký hợp đồng cung cấp dịch vụ du lịch cho công ty TNHH L Việt Nam với tuyến đi Hồ Chi Minh – Mũi Né – Hồ Chí Minh, thời gian từ ngày 13/7/2019 đến 15/7/2019. Sau khi sự việc tai nạn xảy ra, phía công ty Vietravel đã thực hiện các công việc như sau:
Bảo hiểm Bảo Minh Chợ Lớn bồi thường mức tối đa: 120.000.000đồng (mức bảo hiểm theo hợp đồng). Công ty V hỗ trợ cho 02 con ông T với mỗi cháu 100.000.000đồng. Chi phí vận chuyển, mai táng 25.000.000đồng. Về cá nhân bà giám đốc chi nhánh Đồng Nai, đơn vị trực tiếp tổ chức tour hỗ trợ 100.000.000đồng. Về phía Trung tâm hướng dẫn viên của công ty hỗ trợ 30.000.000đồng. Tổng cộng cả công ty và bảo hiểm đã hỗ trợ cho gia đình ông T là 475.000.000đồng. Hiện nay, giữa công ty V với gia đình ông T không có vướng mắc nào về vấn đề hỗ trợ trong việc xử lý tai nạn cho ông T. Về sự việc xảy ra vào ngày 14/7/2019, trước khi xảy ra tai nạn đuối nước thì hướng dẫn viên là anh Huỳnh Đăng T và Lê Phú M đang sắp xếp chương trình gala cho đoàn du lịch vào buổi tối. Thời gian này, theo hợp đồng thì đoàn du khách được tự do nghỉ ngơi. Thời điểm này, chương trình tắm biển không có trong chương trình của hợp đồng đã ký kết. Bãi biển là tiện tích của resort nên du khách được quyền hưởng lợi ích này trong thời gian lưu trú nên S phải có trách nhiệm bảo đảm về cứu hộ, cứu nạn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 57/2020/DS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết đã quyết định:
Căn cứ vào: Khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 244, Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 584 Bộ luật Dân sự; điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị V về việc yêu cầu Công ty TNHH du lịch TP bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ việc đuối nước ngày 14/7/2019 tại khu nghỉ S.
- Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty TNHH du lịch TP hỗ trợ cho bà Nguyễn Thị V 100.000.000đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về lãi suất chậm thi hành án, án phí, quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30/9/2020, ông Nguyễn Hùng T là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Nguyễn Hùng T và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có ý kiến cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ hết bản chất của sự việc, nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để làm rõ sự liên đới trách nhiệm của S resort về cái chết của ông Nguyễn Văn T, xác minh làm rõ các bản tường trình và lời khai gian dối của những người làm chứng bến phía bị đơn.
- Người đại diện hợp pháp của bị đơn đề nghị bác kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm, vì bị đơn hoàn toàn không có lỗi dẫn đến việc ông Nguyễn Văn Thông chết đuối.
- Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
1. Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.
2. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn do ông Nguyễn Hùng T đại diện, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 57/2020/DS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, vắng mặt bà Nguyễn Thị V, bà Ngô Thị T, ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị T, cháu Nguyễn Anh T, cháu Nguyễn Anh Q, nhưng có người đại diện hợp pháp là ông Nguyễn Hùng T; vắng mặt bà Nguyễn Thị Thuý A nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt những người tham gia tố tụng này theo quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, như ý kiến của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa là phù hợp.
[2] Về nội dung:
[2.1] Quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự đều thống nhất khai nhận: Vào ngày 03/7/2019, Công ty TNHH L Việt Nam ký hợp đồng cung cấp dịch vụ du lịch với Công ty Cổ phần du lịch và tiếp thị giao thông vận tải VN (V) để đưa nhân viên của Công ty TNHH L Việt Nam đi nghỉ dưỡng tại Khu nghỉ dưỡng S thuộc Công ty TNHH du lịch TP từ ngày 13/7/2019 đến ngày 15/7/2019. Quá trình nghỉ dưỡng thì đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 14/7/2019 xảy ra sự cố ông Nguyễn Văn T chết đuối khi tắm biển.
[2.2] Theo nguyên đơn thì nguyên nhân xảy ra sự cố đuối nước là do lỗi của bị đơn, do bị đơn tắc trách và chậm trễ trong việc cứu hộ.
[2.3] Theo bị đơn thì mặc dù vùng biển tiếp giáp với Khu nghỉ dưỡng S không thuộc quyền quản lý của bị đơn, nhưng bị đơn cũng đã làm tròn trách nhiệm của mình, cụ thể đã cắm cờ đen cảnh báo biển động cho du khách biết; Ngoài ra, còn có các biển báo ghi rõ khách tắm biển phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những rủi ro cho bản thân, khu nghỉ dưỡng không chịu trách nhiệm về sự cố hoặc tai nạn cá nhân.
[3] Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến trình bày và tranh luận tại phiên tòa của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[3.1] Quá trình giải quyết vụ án, đương sự cung cấp cho Tòa án Công văn số 2871/SVHTTDL-TTr ngày 23/12/2019 của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Thuận thể hiện nội dung: “Sau khi kiểm tra, xác minh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bình Thuận đã phân tích và nói rõ trách nhiệm của S Resort đối với tai nạn biển của ông Nguyễn Văn T, đồng thời đề nghị nghiêm khắc kiểm điểm đối với 4 nhân viên cứu hộ trực vào ngày 14/7/2019”. Do đó, để làm rõ trách nhiệm của bị đơn, vào ngày 17/01/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận đã có Công văn số 09/TABT-TDS gửi Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Thuận để xác minh, làm rõ cụ thể trách nhiệm của bị đơn để làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Đến ngày 29/4/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận nhận được phúc đáp của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Thuận tại Công văn số 1020/SVHTTDL-TTr với nội dung (tóm tắt):
“Việc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Thuận đề nghị kiểm điểm nghiêm khắc đối với 04 nhân viên trực cứu hộ vào ngày 14/7/2019, chủ yếu nhằm để Công ty TNHH du lịch TP tăng cường công tác đảm bảo an toàn hồ bơi, bãi tắm tại S Resort khi có khách đến lưu trú.
… Tại thời điểm Đoàn khách của ông Nguyễn Văn T đến lưu trú tại S Resort, đơn vị có cắm cờ đen, có bảng nội quy, có phao cứu sinh tại khu vực bãi tắm và có bố trí nhân viên Nguyễn Tiến H trực cứu hộ bãi biển (có chứng chỉ chuyên môn và lịch trực kèm theo).” [3.2] Phúc đáp của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Thuận nêu trên hoàn toàn phù hợp với tài liệu, chứng cứ do phía bị đơn cung cấp cho Tòa án, cụ thể là hình ảnh cờ đen cảnh báo biển động được bị đơn cắm trên đường ra bãi biển trong khu S Resort nhận thấy trong các video do Đoàn khách của Trường PTTH Nguyễn An N (Niên khoá 86-89) ở TP.HCM quay vào thời điểm và địa điểm xảy ra tai nạn.
[3.3] Ngoài việc cắm cờ đen cảnh báo biển động nguy hiểm như trên, trên bãi biển thuộc khu S Resort, bị đơn còn cắm biển “Nội quy an toàn khu vực biển” ghi rõ loại màu cờ tương ứng với mức độ nguy hiểm để du khách biết, cụ thể cờ đen là “Biển cực động, tuyệt đối không được tắm”.
[3.4] Từ nhận định trên có thể khẳng định phía bị đơn đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm cảnh báo du khách nguy hiểm khi tắm biển trong điều kiện thời tiết xấu, biển động.
[3.5] Xét thấy, việc cảnh báo nguy hiểm khi tắm biển trong thời tiết xấu, biển động, không phải chỉ do phía bị đơn thực hiện như trên, mà theo ông Lê Phú M là hướng dẫn viên du lịch dẫn đoàn khai tại phiên tòa ngày 17/01/2022: Chính ông cũng đã trực tiếp cảnh báo khi xe đi từ Thành phố Hồ Chí Minh đến S Resort. Do đó, với người trưởng thành như ông Nguyễn Văn T hoàn toàn đủ nhận thức để nhận biết nguy hiểm, nhưng ông Thông vẫn tắm biển trong điều kiện thời tiết xấu, nên mới dẫn đến tai nạn đáng tiếc xảy ra.
[3.6] Ngoài ra, do lời khai của những làm chứng của hai bên mâu thuẫn nhau, cơ quan chức năng cũng không kết luận được ông Nguyễn Văn T tắm biển và bị tai nạn ở khu vực nào, chỉ xác định được nơi tìm thấy thi thể của ông T là tại khu vực của Resort HA. Do đó, nguyên đơn cho rằng ông T tắm và bị đuối nước tại bãi biển thuộc khu vực S Resort nên bị đơn phải chịu trách nhiệm là chưa có căn cứ.
[3.7] Mặt khác, sau khi tai nạn xảy ra, việc bồi thường thuộc trách nhiệm của bảo hiểm nên Công ty bảo hiểm đã bồi thường ở mức tối đa cho gia đình người bị nạn.
[4] Từ nhận định trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ghi nhận sự tự nguyện hỗ trợ để phần nào chia sẽ nỗi đau mất mát người thân cho gia đình người bị nạn của phía bị đơn, là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 584 Bộ luật Dân sự, nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm, như ý kiến đề nghị của phía bị đơn và của Kiểm sát viên là phù hợp.
[5] Về án phí phúc thẩm: Nguyên đơn thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm d khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn do ông Nguyễn Hùng T đại diện; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 57/2020/DSST ngày 23 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết.
Áp dụng: Điều 584 Bộ luật Dân sự;
Tuyên xử:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị V về việc yêu cầu Công ty TNHH Du lịch TP bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ việc đuối nước ngày 14/7/2019 tại khu nghỉ dưỡng S Resort, với tổng số tiền là 1.342.245.340đồng.
- Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty TNHH Du lịch TP hỗ trợ cho bà Nguyễn Thị V 100.000.000đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về án phí: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị V thuộc trường hợp được miễn án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi thành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 102/2022/DS-PT
Số hiệu: | 102/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về