Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 05/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN BÀN, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 05/2022/DS-ST NGÀY 22/08/2022 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Ngày 22 tháng 8 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 03/2022/TLST- DS ngày 12/4/2022, Về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST-DS ngày 19/7/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/QĐ- TA ngày 05/8/2022, giữa:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1975. Địa chỉ: Thôn L, xã LPh, huyện VB, tỉnh LC. Có mặt.

Bị đơn: Bà Lò Thị Ph, sinh năm 1984.

Người nhận ủy quyền của bị đơn ông Lý Phúc T, sinh năm 1982 là bà Lò Thị Ph, sinh năm 1984. Đều có địa chỉ: Thôn Phú M, xã LPh, huyện VB, tỉnh LC. Vắng mặt không có lý do.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lương Thị S, sinh năm 1977. Người nhận ủy quyền của bà Lương Thị S là ông Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1975. Đều có địa chỉ: Thôn L, xã LPh, huyện VB, tỉnh LC. Có mặt.

Người làm chứng: Anh Lý Quý Th, sinh năm 1998; anh Triệu Văn T; bà Triệu Thị T, sinh năm 1980; bà Lý Thị M, sinh năm 1989; ông Lý Phúc C, sinh năm 1982; anh Lý Tòn Ú, sinh năm 1998; ông Triệu Trung Th, sinh năm 1981. Đều có địa chỉ: Thôn Phú Mậu, xã LPh, huyện VB, tỉnh LC. Vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Về yêu cầu buộc bà Lò Thị Ph và ông Lý Phúc T phải bồi thường thiệt hại tài sản cho nguyên đơn ông Nguyễn Mạnh H và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lương Thị S:

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, lời khai, phiên hòa giải ngày 13/9/2018 trong vụ án thụ lý số 04/2018/TLST–DS ngày 29/6/2018 và tại phiên tòa sơ thẩm ngày 30/10/2018, bản tự khai ngày 20/4/2022, lời khai ngày 30/6/2022, phiên hòa giải ngày 11/7/2022 và tại phiên tòa hôm nay của nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của bà Lương Thị S (viết tắt là hộ ông H) trình bày: Tháng 6/2018, hộ ông H khởi kiện tranh chấp quyền sở hữu tài sản đối với bà Lò Thị Ph và ông Lý Phúc T (viết tắt là hộ bà Ph). Quá trình tham gia tố tụng hộ ông H và hộ bà Ph đã tự xác định thống nhất con trâu có giá trị là 25.000.000đ. Tuy nhiên, tại phần quyết định của bản án không xác định tuyên giá trị con trâu thì đến ngày 20/9/2020 con trâu bị chết nên không có căn cứ buộc hộ bà Ph phải bồi thường thiệt hại cho hộ ông H. Nay hộ ông H Khởi kiện tại vụ án thụ lý số 03/2022/TLST- DS ngày 12/4/2022, đề nghị buộc bà Lò Thị Ph và ông Lý Phúc T phải liên đới bồi thường thiệt hại giá trị con trâu đã được tuyên tại bản án số 02/2018/DS- ST ngày 30/10/2018 và theo quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm ngày 09/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn bồi thường trả cho nguyên đơn ông Nguyễn Mạnh H và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lương Thị S số tiền là 25.000.000đ.

Tại bản tự khai, lời khai, phiên hòa giải ngày 13/9/2018, bản tự khai, lời khai ngày 31/5/2022, phiên hòa giải ngày 11/7/2022 của bị đơn, người đại diện theo ủy quyền của ông Lý Phúc T trình bày: Tháng 6/2018 bà Ph và ông T tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn trong vụ khởi kiện tranh chấp quyền sở hữu tài sản thụ lý số 04/2018/TLST –DS ngày 29/6/2018, hộ bà Ph có quan điểm về con trâu tranh chấp là trâu đực có nguồn gốc do con trâu mẹ của hộ bà sinh ra vào tháng 8/2013, đều xác định không thay đổi giá trị con trâu thống nhất, nhất trí con trâu tranh chấp với hộ ông H có giá trị là 25.000.000đ.

Kể từ ngày bản số 02/2018/DS- ST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn có hiệu lực pháp luật hộ bà Ph không giao trâu cho hộ ông H đến ngày 20/9/2020 con trâu đã chết.Tuy nhiên, tại phần quyết định của bản án không xác định giá trị con trâu nên không có căn cứ buộc hộ bà Ph phải bồi thường thiệt hại sau khi con trâu chết. Nay hộ bà Ph nhất trí bồi thường thiệt hại về tài sản giá trị con trâu đã được tuyên tại bản án số 02/2018/DS- ST ngày 30/10/2018 và theo quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm ngày 09/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn bồi thường trả cho ông Nguyễn Mạnh H và bà Lương Thị S số tiền là 25.000.000đ với điều kiện hộ ông H phải bồi thường tiền công chăn thả trâu cho hộ bà Ph số tiền là 96.000.000đ.

Về yêu cầu buộc ông Nguyễn Mạnh H và bà Lương Thị S trả tiền công chăn thả trâu từ ngày 21/01/2018 đến ngày 20/9/2020 cho hộ bà Lò Thị Ph:

Tại lời khai ngày 31/5/2022, đơn đề nghị ngày 20/6/2022 hộ bà Lò Thị Ph trình bày, có yêu cầu: Buộc hộ ông H phải liên đới trả tiền công chăn thả con trâu tranh chấp tính từ ngày 21/01/2018 là “ngày con trâu đang ở trên đồi, tôi đã đuổi con trâu này về nH, về nH tôi đã chọc (sấn) sẹo và chăn dắt, nuôi dưỡng trâu” đến ngày 20/9/2020 con trâu bị chết là 32 tháng. Do vậy, bà Ph yêu cầu buộc hộ ông H phải trả tiền công chăn thả trâu cho hộ bà Ph mỗi ngày 100.000đ/ngày x30 ngày/tháng x 32 tháng = 96.000.000đ. Tuy nhiên, hộ bà Ph không nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm. Hộ bà Ph cho rằng ông H khởi kiện thì hộ ông H phải nộp tiền tạm ứng án phí cho khoản yêu cầu trả tiền công chăn thả trâu của hộ bà Ph. Ngoài ra, hộ bà Ph không có yêu cầu gì khác.

Tại lời khai ngày 30/6/2022 và tại phiên tòa hôm nay ông H, người được ủy quyền của bà S trình bày, có ý kiến về yêu cầu buộc hộ ông H trả tiền công chăn thả trâu tính từ ngày 21/01/2018 đến ngày 20/9/2020 cho hộ bà Ph với mức 100.000đ/ngày x 30 ngày/tháng x 32 tháng = 96.000.000đ. Hộ ông H không nhất trí với yêu cầu của hộ bà Ph, bởi: Từ ngày 21/01/2018 hộ bà Phất tự đuổi trâu của hộ ông H khi đang ở trên đồi về chọc sẹo (sấn sẹo) để chăn thả thì đến ngày 15/02/2018 hộ ông H đến nhận con trâu. Tuy nhiên, hộ bà Ph nhất quyết không giao trả trâu từ trước, trong và ngày bản án được tuyên đã có hiệu lực pháp luật tính đến ngày 20/9/2020 con trâu bị chết là 01 năm 11 tháng hộ bà Ph không chấp Hành bản án. Do vậy yêu cầu của hộ bà Ph không có căn cứ. Đề nghị bác yêu cầu này của hộ bà Ph.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ Tòa đã thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án thụ lý số 04/TLST – DS ngày 29/6/2018 và hồ sơ vụ án thụ lý số 03/2022/TLST- DS ngày 12/4/2022, Về yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thu thập được:

Lời khai của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại bút lục số 48 đến số 55; Bản hòa giải không tHành ngày 13/9/2019 giữa nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại bút lục số 113- 115 và tại bút số 124 đến số 136 của phiên tòa sơ thẩm và bản án 02/2018/DS- ST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn thì nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều có quan điểm xác định: “Giá trị con trâu tranh chấp là 25.000.000đ”.

Tại biên bản xác minh ngày 30/5/2022 với chính quyền địa phương nơi nguyên đơn, bị đơn cư trú, sinh sống và làm việc hiện tại; lời khai ngày 25/5/2022 của người làm chứng ông Lý Phúc C, ông Lý Lá T xác nhận: “ Lúc con trâu này chết, hai gia đình đều tính giá trị con trâu tranh chấp là 25.000.000đ; Tôi chưa nghe thấy việc vợ chồng chị Ph trả con trâu tranh chấp này cho cơ quan thi Hành án Dân sự huyện Văn Bàn và cho hộ ông H mà do ông H, Cơ quan này không nhận trâu”.

Tại phiên Tòa đương sự vẫn giữ nguyên quan điểm và yêu cầu của mình.

Tại phiên Tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Bàn có ý kiến:

-Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, các đương sự đã thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.

- Về giải quyết vụ án: Đề nghị căn cứ Điều 13, Điều164, Điều 170, Điều 584, Điều 585 của Bộ luật dân sự; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử theo hướng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Mạnh H: Buộc bà Lò Thị Ph và ông Lý Phúc T phải liên đới trả cho vợ chồng ông Nguyễn Mạnh H và bà Lương Thị S giá trị con trâu tại bản án số 02/2018/DS- ST ngày 30/10/2018 và theo quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA- DS ngày 09/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn về việc sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm là 25.000.000đ(Hai mươi năm triệu đồng).

Về án phí và quyền kháng cáo tuyên theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

Ông Nguyễn Mạnh H, người nhận ủy quyền của bà Lương Thị S khởi kiện yêu cầu Tòa giải quyết buộc bồi thường thiệt hại về tài sản đối với bà Lò Thị Ph và ông Lý Phúc T. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai theo quy định tại khoản 6, Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 13, Điều 164; Điều 166, Điều 170, Điều 584, khoản 1 Điều 585, Điều 586, Điều 589 của Bộ luật dân sự.

[2] Về việc vắng mặt của đương sự: Bị đơn, Người nhận ủy quyền của bị đơn ông Lý Phúc T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, Tòa án T Hành xét xử vắng mặt đương sự tại phiên tòa.

[3] Về chấp Hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn thực hiện quyền nghĩa vụ theo Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự; Bị đơn thực hiện quyền nghĩa vụ theo Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

[5] Về nội dung khởi kiện:

Yêu cầu buộc bà Lò Thị Ph và ông Lý Phúc T phải bồi thường thiệt hại về tài sản là giá trị con trâu cho nguyên đơn ông Nguyễn Mạnh H và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lương Thị S Căn cứ tại bản kết luận giám định số 383/CNSH ngày 06/9/2018 của Viện công nghệ sinh học Việt Nam; ý kiến - quan điểm của các đương sự trong quá trình tham gia tố tụng tại hồ sơ vụ án thụ lý số 04/2018/TLST- DS ngày 29/6/2018 và hồ sơ vụ án thụ lý số 03/2022/TLST- DS ngày 12/4/2022 thì giữa hộ ông H và hộ bà Ph đều xác định tài sản tranh chấp là con trâu đực có nguồn gốc, đặc điểm đã nêu như tại bản án số 02/2018/DS- ST ngày 30/10/2018 và quyết định số 01/2018/QĐ- SCBSBA- DS ngày 09/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn về việc sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm đều thỏa thuận, thống nhất con trâu tranh chấp có giá trị là 25.000.000đ. Xét thấy, hộ ông H yêu cầu hộ bà Ph phải liên bồi thường thiệt hại giá trị con trâu thuộc quyền sở hữu tài sản từ người chiếm hữu không có căn cứ đã được tuyên tại bản án số 02/2018/DS- ST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn. Do đó Hội đồng xét xử cần áp dụng Điều 13, Điều 164; Điều 166, Điều 170, Điều 584, khoản 1 Điều 585, Điều 586, Điều 589 của Bộ luật dân sự chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản của hộ ông Nguyễn Mạnh H là có căn cứ.

Từ những phân tích, đánh giá trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Mạnh H và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lương Thị S.

[6] Đối với yêu cầu trả tiền công chăn thả trâu từ ngày 21/01/2018 đến ngày 20/9/2020 của hộ bà Lò Thị Ph: Hộ bà Ph và hộ ông H đều công nhận ngày 21/01/2018 con trâu đang ở trên đồi, hộ bà Ph đã tự đuổi con trâu này về nH để chọc sẹo (sấn sẹo) và chăn thả trâu đến ngày 15/02/2018 hộ ông H phát hiện con trâu hộ bà Ph sấn sẹo trăn thả là trâu của ông H, Hộ ông H gặp trao đổi thì hộ bà Ph cương quyết không trả, kết quả giải quyết thì hộ bà Ph phải trả con trâu có đặc điểm nêu trên cho hộ ông H, nhưng hộ bà Ph không thi Hành mà tiếp tục chăn thả tính đến ngày 20/9/2020 con trâu bị chết là 32 tháng. Quá trình giải quyết vụ án hộ bà Ph đã được Tòa giải thích các quy định của pháp luật liên quan đến việc hộ bà Ph yêu cầu trả tiền công chăn thả trâu thông qua quá trình hộ bà Ph tham gia tố tụng để hộ bà Ph biết liên hệ đến quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, tại phiên hòa giải hộ bà Ph vẫn giữ nguyên yêu cầu đề nghị, buộc ông H và bà S liên đới trả tiền công chăn thả trâu từ ngày 21/01/2018 đến ngày 20/9/2020 cho hộ bà Ph với mức 100.000đ/ngày x 30 ngày/tháng x 32 tháng = 96.000.000đ. Tòa án đã tiếp nhận yêu cầu trả tiền công chăn thả trâu của hộ bà Ph và thông báo cho hộ bà Ph nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định. Tuy nhiên, hộ bà Ph không nộp tiền tạm ứng án phí. Gia đình hộ bà Ph không thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo của xã Liêm Phú nên không thuộc trường hợp được miễn, giảm nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm. Hết thời hạn, Tòa án đã thông báo số 02/2022/TB- TA ngày 04/7/2022 về việc không T Hành thụ lý ý kiến, yêu cầu của hộ bà Lò Thị Ph về yêu cầu buộc ông H và bà S phải trả tiền công chăn thả trâu. Do vậy, hội đồng xét xử không đề cập vấn đề giải quyết.

[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Bàn là phù hợp.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn bà Lò Thị Ph, ông Lý Phúc T phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[9] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 13; Điều Điều 134; Điều 135; Điều 138; Điều 164 , Điều 166, Điều 170, Điều 357, Điều 584, khoản 1 Điều 585, Điều 586, Điều 589 của Bộ luật dân sự; khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 92; Điều 144; Khoản 1 Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 27; khoản 1 Điều 37 Luật hôn nhân gia đình; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Buộc bà Lò Thị Ph và ông Lý Phúc T phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Nguyễn Mạnh H và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lương Thị S tổng số tiền 25.000.000đ (hai mươi năm triệu đồng).

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật( đối với các trường hợp cơ quan thi Hành án có quyền chủ động ra quyết định thi Hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi Hành án của người được thi Hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi Hành án) cho đến khi thi Hành xong, bên phải thi Hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi Hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bà Lò Thị Ph và ông Lý Phúc T phải có nghĩa vụ liên đới chịu 1. 250.000đ (Một triệu, hai trăm, năm mươi nghìn đồng) tiền án phí Dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho cho nguyên đơn ông Nguyễn Mạnh H và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lương Thị S số tiền tạm ứng án phí đã nộp 625.000đ ( Sáu trăm hai mươi năm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004287 ngày 08/4/2022 của Chi cục Thi Hành án dân sự huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi Hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi Hành án dân sự thì người được thi Hành án dân sự, người phải thi Hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi Hành án, quyền yêu cầu thi Hành án, tự nguyện thi Hành án hoặc bị cưỡng chế thi Hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, và 9 Luật Thi Hành án dân sự; thời hiệu thi Hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 05/2022/DS-ST

Số hiệu:05/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Bàn - Lào Cai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về