Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm số 22/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 22/2023/DS-PT NGÀY 23/02/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM

Ngày 23 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 103/2022/TLPT-DS ngày 27 tháng 10 năm 2022 về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2022/DS-ST ngày 06 tháng 7 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện H bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 02/2023/QĐ-XXPT ngày 11 tháng 01 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1963; có mặt Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh B.

2. Bị đơn: Ông Thái Văn G, sinh năm 1960; có mặt Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh B.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Trần Thị T, sinh năm 1964; có mặt Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh B.

4. Người kháng cáo:

Ông Thái Văn G là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Nguyên đơn trình bày:

Do mâu thuẫn giữa anh em rễ với nhau nên khoảng 16 giờ 30 phút ngày 13/10/2020 giữa ông Nguyễn Văn L với ông Thái Văn G có xảy ra xô xát nhưng hai bên không có thương tích gì. Đến khoảng 8 giờ ngày 14/10/2020, ông Thái Văn G chở cỏ từ dưới đám thanh long nhà ông G lên thì ông L dùng xe đạp chặn xe mô tô của ông G lại hỏi lý do tại sao ngày 13/10/2020 ông G đánh ông L thì ông G không giải thích mà nhảy vào đánh ông túi bụi, hậu quả ông L bị bất tỉnh nên hàng xóm gọi taxi đưa ông L đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh B. Tại bệnh viện ông L đã nằm điều trị 05 ngày, từ ngày 14/10 đến ngày 19/10/2020. Tại đơn khởi kiện, ông Nguyễn Văn L yêu cầu ông Thái Văn G phải bồi thường tổng cộng số tiền 7.981.690 đồng.

Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Nguyễn Văn L yêu cầu ông Thái Văn G bồi thường tổng cộng 4.571.690đồng, gồm tiền viện phí 3.121.690đồng; Tiền mất thu nhập của ông L trong thời gian điều trị: 05 ngày x 100.000đồng = 500.000đồng; Tiền mất thu nhập của bà Trần Thị T (vợ ông L, là người trực tiếp chăm sóc cho ông L trong thời gian điều trị) 05 ngày x 150.000= 750.000đồng; Chi phí thuê xe đi từ thôn T lúc nhập viện và ra viện: 02 lượt x 100.000đồng = 200.000đồng.

Bị đơn trình bày:

Ngày 13/10/2020, ông G và ông Nguyễn Văn L (em vợ) có lời qua tiếng lại. Sáng ngày 14/10/2020, ông G đi cắt cỏ trên đường về thì ông L đứng đợi sẵn trên đường. Khi thấy ông G thì ông L quăng chiếc xe đạp của ông L vào xe máy của ông G đang điều khiển, cầm xẻng xúc đất nhảy vào đánh ông G nhưng theo phản xạ thì ông G chụp xẻng ném xuống đất, ông Lưu t lấy áo ông, hai bên ngã xuống đất, giằng co qua lại và xô xát nhau nhưng ông G không làm ông L bị thương tích như ông L trình bày.

Nay ông Nguyễn Văn L làm đơn khởi kiện yêu cầu ông G bồi thường tổng số tiền 3.871.690 đồng (gồm tiền viện phí của ông L 3.121.690 đồng, tiền mất thu nhập của bà Trần Thị T 750.000đồng (05 ngày x 150.000đồng/ngày). Ông G không đồng ý bồi thường vì ông G không gây thương tích cho ông L.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

Bà Trần Thị T thống nhất với trình bày và yêu cầu của ông Nguyễn Văn L.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2022/DS-ST ngày 06 tháng 7 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện H đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 588, Điều 590 của Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn L đối với bị đơn ông Thái Văn G về yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm.

Buộc ông Thái Văn G phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho ông Nguyễn Văn L số tiền 3.657.352 đồng (Ba triệu sáu trăm năm mươi bảy nghìn ba trăm năm mươi hai đồng).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về lãi suất do chậm thi hành án, án phí theo quy định.

Ngày 20/7/2022, ông Thái Văn G có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án phúc thẩm xem xét lại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2022/DS-ST ngày 06 tháng 7 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện H.

+ Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Lưu g nguyên yêu cầu khởi kiện đã trình bày tại phiên tòa sơ thẩm;

- Bị đơn ông Thái Văn G giữ nguyên yêu cầu kháng cáo như đơn kháng cáo. Ông G cho rằng bản thân ông cũng bị ông L đánh, ông có dùng dép lào đánh vào mặt ông L nhưng thương tích không đến mức như ông L trình bày.

- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và quan điểm giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Thái Văn G, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Bị đơn kháng cáo trong thời hạn quy định pháp luật nên vụ án được xem xét theo thủ tục phúc thẩm;

- Tòa án sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết là đúng quy định tại khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét kháng cáo của bị đơn:

[2.1] Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

Căn cứ lời khai của ông Nguyễn Văn L và bà Trần Thị T, ông Thái Văn G, nhận thấy: Khoảng 08 giờ ngày 14/10/2020, ông Thái Văn G đang điều khiển xe máy đi trên đường bê tông kênh N 23 thuộc thôn T, xã H, huyện H, tỉnh B thì ông Nguyễn Văn L và bà Trần Thị T có chửi ông Thái Văn G; đồng thời ông L dùng xe đạp ném vào xe ông G đang điều khiển làm ông G té ngã. Ông Thái Văn G có dùng tay và dép đánh vào mặt ông L. Sau khi sự việc xảy ra, ông L được đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh B điều trị. Tại giấy chứng nhận thương tích số 297/10/2020/CN ngày 27/10/2020 của Bệnh viện đa khoa tỉnh B thể hiện: Ông Nguyễn Văn L vào viện lúc 08 giờ 45 phút ngày 14/10/2020, ra viện lúc 17 giờ ngày 19/10/2020, tình trạng thương tích lúc vào viện: Đau đầu, nôn ói, đau vùng má phải + sưng nề ít, đau vùng cổ, than đau lưng ngực, sưng nề môi trên, vết thương mặt trong môi trên khoảng 02cm; lý do vào viện: khai bị đánh; chẩn đoán: chấn thương phần mềm đầu cổ. Hành vi của ông Nguyễn Văn L và bà Trần Thị T, ông Thái Văn G bị Trưởng Công an xã H, huyện H, tỉnh B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Có cơ sở xác định thương tích của ông Nguyễn Văn L là do ông Thái Văn G gây ra nên căn cứ khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015, ông G phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông L.

[2.2] Về số tiền bồi thường: Ông Nguyễn Văn L điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh B 05 ngày, hóa đơn thể hiện chi phí 3.121.690đồng; Trong thời gian điều trị, bà T là người chăm sóc ông L; bà T và ông Lưu k có thu nhập ổn định nhưng ông L đưa ra yêu cầu số tiền mất thu nhập của ông là 500.000đồng/05 ngày, của bà T là 750.000đồng/05 ngày là phù hợp; Chi phí đi xe vào viện, ra viện 200.000đồng là hợp lý. Vì vậy, ông Nguyễn Văn L yêu cầu bồi thường tổng số tiền 4.571.690đồng là có căn cứ. Tuy nhiên nguyên nhân dẫn đến ông G gây thiệt hại sức khỏe cho ông L cũng có phần lỗi của ông L nên Tòa án sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu của ông L với số tiền 3.657.352đồng là phù hợp quy định tại Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015.

Từ những nhận định trên, xét kháng cáo của bị đơn ông Thái Văn G là không có cơ sở chấp nhận. Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B.

[3] Tòa án sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn nhưng không tuyên rõ số tiền không được chấp nhận là thiếu sót, nên cần điều chỉnh, bổ sung.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, ông Thái Văn G phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, Không chấp nhận kháng cáo của ông Thái Văn G.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2022/DS-ST ngày 06 tháng 7 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện H.

Áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015;

điểm d khoản 1 Điều 12, khoản 2 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn L. Buộc ông Thái Văn G phải có nghĩa vụ bồi thường cho ông Nguyễn Văn L số tiền 3.657.352đồng (Ba triệu sáu trăm năm mươi bảy nghìn ba trăm năm mươi hai đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn L về việc đòi ông Thái Văn G bồi thường số tiền 914.338đồng (Chín trăm mười bốn nghìn ba trăm ba mươi tám đồng).

3. Về án phí:

- Ông Nguyễn Văn L được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận.

- Ông Thái Văn G phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

- Ông Thái Văn G phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0010998 ngày 01/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện H. Ông Thái Văn G đã nộp đủ án phí phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 23/02/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm số 22/2023/DS-PT

Số hiệu:22/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về