TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 119/2023/DS-ST NGÀY 18/09/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
Trong ngày 18 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 72/2023/TLST-DS ngày 17 tháng 3 năm 2023 về việc“Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2023/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông H, sinh năm 19U (có mặt); Địa chỉ: Ấp , xã V, thị xã V C, tỉnh Sóc Trăng.
2. Bị đơn: Ông R, sinh năm 19YY (vắng mặt); Địa chỉ: Ấp H, xã L, thị xã V C, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 23/12/2022 cũng như tại phiên toà nguyên đơn ông H trình bày:
Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 21/4/2021, tại ấp H, xã L, thị xã V C, tỉnh Sóc Trăng, có 03 người thanh niên lạ mặt (không biết tên và địa chỉ) hỏi ông H (chủ xe cuốc, xe ủi) có đi cuốc đất không? Sau khi hai bên nói chuyện qua lại thì bất ngờ trong 03 người, có một người tên R dùng tay đánh nhiều cái trúng vào mặt, ngực và cổ của ông Hái thì được mọi người la lên nên tất cả bỏ đi. Ông H đi điều trị tại Trung tâm y tế thị xã Vĩnh Châu đến ngày 28/4/2021 xuất viện. Kết quả giám định tỷ lệ tổn hại sức khỏe do thương tích gây nên của ông H là 01%. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Vĩnh Châu ra Thông báo số 01/TB-ĐTTH ngày 07/01/2022 không khởi tố vụ án hình sự.
Tại phiên tòa, ông H yêu cầu Tòa án giải quyết các yêu cầu sau: Buộc ông R phải có nghĩa vụ trả các khoản chi phí gồm:
- Tiền thuốc và viện phí: 3.888.700 đồng.
- Tiền thất công lao động cho ông H (chủ xe cuốc, ủi): Người bệnh: 08 ngày x 5.000.000 đồng = 40.000.000 đồng. Người nuôi bệnh: 08 ngày x 200.000 đồng = 1.600.000 đồng.
- Tiền bù đắp tổn thất tinh thần: 5.000.000 đồng.
Tổng cộng số tiền là: 50.488.700 đồng (năm mươi triệu bốn trăm tám mươi tám nghìn bảy trăm đồng).
Đối với bị đơn ông R: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành thông báo thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp để kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của pháp luật và triệu tập hợp lệ đối với bị đơn ông R nhưng vẫn vắng mặt và không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp để kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 210 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Tòa án có thông báo kết quả mở phiên họp cho bị đơn ông R nêu trên để biết.
Tại phiên tòa vị Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu phát biểu ý kiến:
- Về pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký chấp hành đúng pháp luật về tố tụng; nguyên đơn chấp hành tốt theo giấy triệu tập của Tòa án tại các phiên họp, hòa giải cũng như tại phiên tòa. Riêng đối với bị đơn ông R chưa chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án tại các phiên họp, hòa giải cũng như tại phiên tòa.
- Về pháp luật nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:
+ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông H. Buộc bị đơn R có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho ông H các khoản chi phí hợp lý theo quy định của pháp luật.
+ Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về pháp luật tố tụng:
[1] Xét thấy, yêu cầu khởi kiện của ông H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu quy định tại khoản 6 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Tòa án thụ lý giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện của nguyên đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Tại phiên tòa: Bị đơn ông R đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.
Về pháp luật nội dung:
[1] Xét thấy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông H yêu cầu bị đơn ông R phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm là có căn cứ chấp nhận. Bởi vì:
[1.1] Sự việc cự cãi qua lại giữa ông H với ông R dẫn đến xô xát đánh nhau là có thật, đã được các bên thừa nhận.
[1.2] Tại giấy chứng nhận thương tích, giấy ra viện của Trung tâm y tế thị xã Vĩnh Châu của ông H lập ngày 28/4/2021 xác định thương tích là đa chấn thương do bị đánh; tại Bản kết luận giám định số 342/TgT-PY ngày 09/12/2021 của Trung tâm Pháp y của Sở Y tế tỉnh Sóc Trăng xác định tỷ lệ tổn thương do thương tích gây nên của ông H là 01%. Các chứng cứ này phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án do Tòa án thu thập từ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Vĩnh Châu.
[1.3] Tại biên bản ghi lời khai ngày 03/5/2021 tại Công an xã L, thị xã V C và biên bản ghi lời khai ngày 05/01/2022 tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Vĩnh Châu, ông R đã thừa nhận thương tích của ông H là do ông R dùng tay đánh gây thương tích.
[1.4] Như vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đây là những tình tiết nhận định trên thì phía nguyên đơn ông H không cần phần phải chứng minh.
[1.5] Từ những chứng cứ nêu trên, có đủ căn cứ xác định thương tích của ông H là do ông R gây ra là hoàn toàn phù hợp với diễn biến tại thời điểm xảy ra vụ việc và các chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, nguyên đơn ông H yêu cầu bị đơn ông R có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho ông H là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Đối với yêu cầu bồi thường về tiền thất công lao động đối với ông H (người bệnh) mỗi ngày với số tiền 5.000.000 đồng là chưa hợp lý. Bởi vì, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, ông H không đưa ra được chứng cứ để chứng minh theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên không có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên, xét thấy ông H vừa là tài xế vừa là chủ xe cuốc, xe ủi nên Hội đồng xét xử xem xét mức thu nhập bình quân mỗi ngày với số tiền 500.000 đồng là phù hợp với mức lao động thực tế và đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho ông H.
[3] Từ những phân tích nhận định trên, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 584, 585, 586, 588, 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông H về yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
- Buộc bị đơn ông R phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho ông H các khoản chi phí hợp lý gồm:
- Tiền thuốc và viện phí: 3.888.700 đồng.
- Tiền thất công lao động cho người bệnh H: 08 ngày x 500.000 đồng/ ngày/người = 4.000.000 đồng.
- Tiền thất công lao động cho người nuôi bệnh: 08 ngày x 200.000 đồng/ngày/người = 1.600.000 đồng.
- Tiền bù đắp tổn thất tinh thần (theo yêu cầu của H) là: 5.000.000 đồng.
Tổng cộng số tiền là: 14.488.700 đồng (mười bốn triệu bốn trăm tám mươi tám nghìn bảy trăm đồng).
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông H được chấp nhận, nên bị đơn ông R phỉa chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Xét thấy, đề nghị của vị Kiểm sát viên là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 1 và khoản 2 Điều 143; khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 146; khoản 1 Điều 147;
Điều 165; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Các Điều 584, 585; khoản 1 Điều 586; các Điều 588, Điều 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông H về yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
Buộc bị đơn ông R phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho ông H các khoản chi phí hợp lý gồm:
- Tiền thuốc và viện phí: = 3.888.700 đồng.
- Tiền thất công lao động cho người bệnh H: 08 ngày x 500.000 đồng/ngày/người = 4.000.000 đồng.
- Tiền thất công lao động cho người nuôi bệnh (theo yêu cầu của ông Hái): 08 ngày x 200.000 đồng/ngày/người = 1.600.000 đồng.
- Tiền bù đắp tổn thất tinh thần (theo yêu cầu của H) là: 5.000.000 đồng.
Tổng cộng số tiền là: 14.488.700 đồng (mười bốn triệu bốn trăm tám mươi tám nghìn bảy trăm đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày ông H có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng bị đơn ông R còn phải trả lãi cho ông H theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị đơn ông R phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 724.435 đồng (bảy trăm hai mươi bốn nghìn bốn trăm ba mươi lăm đồng).
Nguyên đơn ông H không phải chịu án phí và được miễn nộp tiền tạm ứng án phí nên không phải xử lý tiền tạm ứng án phí.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong hạn luật định 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014)”.
Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm số 119/2023/DS-ST
Số hiệu: | 119/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về