TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HM, TỈNH NA
BẢN ÁN 10/2023/DS-ST NGÀY 18/08/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
Ngày 18 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở, Toà án nhân dân thị xã H M xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 36/2022/TLST-DS ngày 10/11/2022 về tranh chấp: “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2023/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 8 năm 2023, giữa các đươngsự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1982 (Có mặt). Trú tại: Khối Th H, phường Q Th, thị xã H M, tỉnh N A.
Đồng bị đơn: 1. Chị Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1989 (Có mặt).
2. Bà Trần Thị Th1, sinh năm 1961 (Có mặt).
Cùng trú tại: Khối Th M, phường Q Th, thị xã H M, tỉnh N A.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai biên bản hòa giải và tại phiên toà, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th trình bày: Vào ngày 21/9/2021 chị đang đứng trên đường Quốc lộ 1, đoạn qua khối Th M, phường Q Th, thị xã H M, tỉnh N A đón xe thì bị bà Trần Thị Th1 và chị Nguyễn Thị Tr xông vào đánh từ phía sau. Sau khi chị ngã xuống thì các đối tượng bỏ đi, chị được người dân đưa đến Bệnh viện đa khoa Quang Khởi điều trị từ ngày 21/9/2021 đến ngày 02/10/2021 thì được ra viện.
Sự việc sau đó được Công an phường Q Th, thị xã H M, tỉnh N A điều tra, xử lý về hành vi xâm hại sức khỏe người khác đối với bà Th1 và chị Tr. Tuy nhiên, đến nay bà Th1 và chị Tr chưa hề bồi thường thiệt hại về sức khỏe và chi phí điều trị tại Bệnh viện cho chị với tổng chi phí cụ thể như sau:
- Tiền viện phí, tiền thuốc điều trị: 6.213.000 đồng (Sáu triệu hai trăm mười ba nghìn đồng);
- Tiền bồi dưỡng hồi phục sức khỏe trong thời gian điều trị: 10 ngày x 100.000đ = 1.000.000 đồng (Một triệu đồng);
- Tiền xe nhập viện và ra viện: 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng);
- Tiền thiệt hại do không lao động được: 10 ngày x 300.000đ = 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).
Tổng cộng các khoản: 10.813.000 đồng (Mười triệu tám trăm mười ba nghìn đồng).
Nay chị yêu cầu Tòa án buộc bà Tần Thị Thuận và chị Trần Thị Trang phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho chị số tiền là 10.813.000 đồng (Mười triệu tám trăm mười ba nghìn đồng).
Tại bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa bị đơn bà Trần Thị Th1 trình bày: Vào ngày 21/9/2021 bà đưa cháu Trần Nguyễn Bảo A đến chỗ ở của bố cháu là anh Nguyễn Bá N tại khối Th M, phường Q Th, thị xã H M, tỉnh N A thì thấy chị Nguyễn Thị Th ngồi trên đường Quốc lộ 1A. Bà bảo chị Th là mày phá nát gia đình tao thì chị Th chửi bà “địt mẹ mày” rồi xông vào đánh bà dẫn đến hai bên xô xát nhau, chị Th đánh vào mặt bà còn bà tát vào mặt chị Th, ngoài ra bà không biết gì nữa. Hôm đó chị Tr chỉ đi cùng với bà còn không tham gia vào việc đánh chị Th.
Nay chị Th yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà và con gái bà là chị Nguyễn Thị Tr phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe và các chi phí khác là: 10.813.000 đồng (Mười triệu tám trăm mười ba nghìn đồng) thì bà không đồng ý mà chỉ đồng ý bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho chị Th bị bà tát vào mặt với số tiền: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Tại bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa bị đơn chị Nguyễn Thị Tr trình bày: Vào ngày 21/9/2021 chị được bà Trần Thị Th1 (mẹ đẻ) nhờ đưa cháu Trần Nguyễn Bảo A đến chỗ ở của bố cháu là anh Nguyễn Bá N tại khối Th M, phường Q Th, thị xã H M, tỉnh N A thì thấy chị Nguyễn Thị Th ngồi trên đường Quốc lộ 1A. Sau đó mẹ chị và chị Nguyễn Thị Th chửi nhau. Rồi chị Th xông vào đánh mẹ chị vào mặt, vào mắt và vào người, thấy vậy nên chị đã vào can hai người ra. Ngoài ra chị không biết gì cả.
Nay chị Th yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị và mẹ chị là bà Trần Thị Th1 phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe và các chi phí khác là: 10.813.000 đồng (Mười triệu tám trăm mười ba nghìn đồng) thì chị không đồng ý Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã H M phát biểu ý kiến như sau:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã tuân thủ theo đúng các quy định về pháp luật tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử.
Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay các đương sự đã thực hiện đúng các quy định Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của đương sự.
Kiểm sát viên tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 584; 585; 586; 588; 590 Bộ luật Dân sự; khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Đề nghị chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th về yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Buộc bà Trần Thị Th1, chị Nguyễn Thị Tr phải liên đới bồi thường cho chị Th tổng các khoản là 10.513.000 đồng (Mười triệu năm trăm mười ba nghìn đồng).
Về án phí: Chị Nguyễn Thị Th không phải chịu án phí của phần không được chấp nhận. Chị Nguyễn Thị Tr phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Miễn tiền án phí cho bà Trần Thị Th1.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 21/9/2021, bà Th1, chị Tr có hành vi gây tương tích cho chị Th. Ngày 23/5/2022, chị Th có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Th1, chị Tr phải bồi thường thiệt hại do bà Th1, chị Tr đã có hành vi xâm phạm sức khỏe đối với chị. Do vậy đây là quan hệ tranh chấp “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm”. Bà Trần Thị Th1, chị Nguyễn Thị Tr hiện cư trú tại khối Th M, phường Q Th, thị xã H M, tỉnh N A nên vụ án đang còn thời hiệu và thuộc thẩm quyền giải quyết Tòa án nhân dân thị xã H M theo quy định tại khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 588 Bộ luật dân sự.
[2] Về nội dung: Xuất phát từ việc mâu thuẫn trong cuộc sống từ trước.
Khoảng 08 giờ 45 sáng ngày 21/9/2021 bà Trần Thị Th1, chị Nguyễn Thị Tr có hành vi dùng tay chân, giằng co xô xát với chị Th làm chị Th ngã ra đất và phải vào Bệnh viện đa khoa Quang Khởi khám và điều trị từ ngày 21/9/2021 đến ngày 02/10/2021 thì ra viện. Với chuẩn đoán chị Th bị tổn thương ở đầu, chấn thương phần mềm gối phải, bàn chân phải do bị đánh. Sau đó sự việc đã được Công an phường Q Th lập biên bản và ngày 21/10/2021 Công an thị xã H M, tỉnh N A đã ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với bà Th1, chị Tr với số tiền là 2.500.000đ về hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác, chứng tỏ bà Th1, chị Tr đã có hành vi gây thương tích cho chị Nguyễn Thị Th. Do đó bà Th1, chị Tr phải có trách nhiệm bồi thường về sức khỏe cho người mình đã xâm phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 584 của Bộ Luật Dân sự. Xét thấy, việc chậm trễ bồi thường thiệt hại gây ảnh hưởng rất lớn đối với sức khỏe cũng như tinh thần của chị Th. Nên việc chị Th khởi kiện bà Th1, chị Tr là có có cơ sở chấp nhận. Xét xét mức độ gây thương tích của bà Th1, chị Tr đối với chị Th quá trình giải quyết cũng như biên bản sự việc không thể xác định được bà Th1 hay chị Tr, ai là người gây thương tích cho chị Th nhiều hơn nên bà Th1, chị Tr đều phải chịu chung mức bồi thường kỷ phần của mỗi người là ngang nhau.
Chị Th yêu cầu bà Th1, chị Tr bồi thường các chi phí cho việc khám, điều trị, di chuyển từ bệnh viện đa khoa Quang Khởi, tiền bồi dưỡng trong thời gian nằm viện và tiền công bị mất trong thời gian nằm viện tổng cộng các khoản là 10.813.000 đồng (Mười triệu tám trăm mười ba nghìn đồng). Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà Th1, chị Tr không chấp nhận yêu cầu của chị Th về số tiền này. Do vậy Hội đồng xét xử sẽ xem xét quyết định đối với yêu cầu của chị Th.
Đối với yêu cầu của chị Th về Tiền viện phí, tiền thuốc điều trị tổng cộng:
6.213.000 đồng (Sáu triệu hai trăm mười ba nghìn đồng). Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét toàn diện các hóa đơn chứng từ mà chị Th đã cung cấp Hội đồng xét xử xét thấy tiền viện phí có hóa đơn chứng từ hợp lệ. Các loại thuốc chị Th mua đều dựa trên đơn thuốc mà Bệnh viện đa khoa Quang khởi đề nghị mua để điều trị nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu của chị Th là buộc bà Th1, chị Tr phải bồi thường cho chị Th số tiền Viện phí, tiền thuốc điều trị tổng cộng là 6.213.000 đồng (Sáu triệu hai trăm mười ba nghìn đồng) theo các hóa đơn chị Th đã cung cấp.
Đối yêu cầu tiền thuê xe đi lại của chị Th là 600.000đ. Sau khi xem xét quảng đường từ chỗ bị đánh đến bệnh viện đa khoa Quang Khởi và từ bệnh viện đa khoa Quang Khởi về nhà cũng như giá thuê xe tại thời điểm đó. Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của chị Th tổng cộng là 300.000đ cụ thể tiền thuê xe đi từ chỗ bị đánh (khối Th M, phường Q Th) đến bệnh viện đa khoa Quang Khởi (cùng ở khối Th M, phường Q Th) là 100.000đ; tiền thuê xe đi từ bệnh viện đa khoa Quang Khởi (khối Th M, phường Q Th) về nhà (tại khối Th H, phường Q Th) là 200.000đ.
Đối với yêu cầu của chị Th về số tiền thu nhập thực tế bị mất trong thời gian điều trị 10 ngày x 300.000đ/ngày là 3.000.000 đồng. Sau khi xem xét điều kiện mức thu nhập bình quân của mỗi người dân hiện nay và tại địa bàn phường Q Th, Hội đồng xét xử xét thấy mức thu nhập bình quân 300.000đ/người/ngày là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.
Đối với yêu cầu của chị Th về số tiền ăn uống, bồi dưỡng sức khỏe trong thời gian điều trị: 10 ngày x 100.000đ = 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) được xem là chi phí bồi dưỡng sức khỏe: Hội đồng xét xử nhận thấy đây là chi phí hợp lý cho việc bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của chị Th với số tiền 1.000.000 đồng.
Ngoài ra còn có các chi phí hợp lý khác trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Th không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[3]. Xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về án phí: Chị Th yêu cầu bồi thường do sức khỏe bị xâm phạm thuộc trường hợp được miễn án phí đối với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận. Bà Trần Thị Th1 là người cao tuổi đã có đơn xin miễn tiền án phí nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu của chị Th được Tòa án chấp nhận, chị Nguyễn Thị Tr phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu của chị Th được Tòa án chấp nhận theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 584, 585, 586, 587, 588, 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm d,đ khoản 1 Điều 12; Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th.
1. Buộc bà Trần Thị Th1, chị Nguyễn Thị Tr phải liên đới bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại cho chị Nguyễn Thị Th với tổng số tiền 10.513.000 đồng (Mười triệu năm trăm mười ba nghìn đồng). Chia kỹ phần: Mỗi người phải bồi thường 5.256.500 đồng (Năm triệu hai trăm năm mươi sáu nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, nếu bên phải thi hành án mà không thi hành thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
2. Về án phí:
- Buộc chị Nguyễn Thị Tr phải chịu án 300.000đ đồng tiền phí dân sự sơ thẩm. Miễn tiền án phí cho bà Trần Thị Th1 3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm số 10/2023/DS-ST
Số hiệu: | 10/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về