Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại lao động số 04/2023/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 04/2023/LĐ-ST NGÀY 17/07/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI LAO ĐỘNG

Ngày 17 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 01/2023/TLST-LĐ, ngày 11 tháng 5 năm 2023 về tranh chấp “Bồi thường thiệt hại về lao động” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 279/2023/QĐXXST-LĐ ngày 12 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH N.

Địa chỉ trụ sở: Số I, đường B, phường T, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:

- Ông Trương T. Là người đại diện theo pháp luật (Chủ tịch Hội đồng thành viên); vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1961 - Giám đốc Công ty TNHH NI - Chi nhánh K. Địa chỉ: C P, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang. Là người đại diện theo ủy quyền. Giấy ủy quyền số 188/GUQ-VT, ngày 01/6/2023 của Tổng Giám đốc; có mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Cao S, sinh năm 1978; vắng mặt.

Địa chỉ: số A, đường Đ, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện ngày 25/4/2023 của nguyên đơn là Công ty TNHH N; quá trình giải quyết và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị T trình bày:

Ngày 02/01/2019, Công ty TNHH N có ký Hợp đồng lao động số 01-2010/CNKG với ông Nguyễn Cao S để thuê ông S vào làm việc với chức vụ Giám đốc chi nhánh và kiêm Cửa hàng Trưởng chi nhánh Công ty TNHH Nệm Vạn Thành tỉnh N. Trong quá trình làm việc, ông S đã tự ý sử dụng tiền mặt và nợ tiền hàng hóa của Công ty, cụ thể như sau:

Về nợ tiền mặt: Theo Tờ tường trình và cam kết ngày 17/9/2020 của ông S thì ông S đã thừa nhận làm thất thoát tiền mặt của Công ty là 400.000.000 đồng. Để tạo điều kiện khắc phục hậu quả số tiền trên, ngày 22/9/2020, ông S có viết Tờ cam kết xin trả cho Công ty làm 02 đợt vào ngày 25/9/2020 trả 150.000.000 đồng và ngày 05/10/2020 trả 250.000.000 đồng. Tuy nhiên, ông S chỉ trả cho Công ty được số tiền 230.000.000 đồng vào các ngày: Ngày 24/9/2020: nộp trả 150.000.000 đồng; Ngày 6/10/2020 nộp trả 20.000.000 đồng; Ngày 23/10/2020 nộp trả 10.000.000 đồng; Ngày 02/11/2020 nộp trả 10.000.000 đồng; Ngày 09/11/2020 nộp trả 10.000.000 đồng; Ngày 30/11/2020 nộp trả 10.000.000 đồng và Ngày 08/12/2020 nộp trả 20.000.000 đồng thì ngưng cho đến nay còn nợ tiền mặt của Công ty là 170.000.000 đồng.

Về nợ tiền hàng hóa: Theo Bảng kê hàng mất tại kho Chi nhánh K ngày 21/9/2020 cùng Tờ giải trình và cam kết ngày 21/9/2020, ông S xác nhận có bán lô hàng tại huyện K, tỉnh Kiên Giang gồm Cao su 100 li - 1.6m: 24 tấn; cao su 100 li - 1.8m: 16 tấn trị giá 418.160.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền mà ông S còn nợ Công ty N là 588.160.000 đồng gồm 170.000. 000 đồng (Một trăm bảy mươi triệu đồng) nợ tiền mặt và 418.160.000 đồng (Bốn trăm mười tám triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng) nợ tiền hàng hóa nên Công ty N khởi kiện yêu cầu ông S phải trả dứt số tiền trên.

Công ty xác nhận là khi ông S viết Tờ cam kết, để đảm bảo cho việc thanh toán nợ của ông S, Công ty có giữ bản chính Giấy chứng nhận xe số 004399 do Công an tỉnh A cấp cho ông Nguyễn Cao S ngày 20/10/2011.

Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của Công ty N có các yêu cầu như sau:

Do ông S bán lô hàng tại huyện K, tỉnh Kiên Giang gồm Cao su 100 li - 1.6m: 24 tấn; cao su 100 li - 1.8m: 16 tấn trị giá 418.160.000 đồng thì ông S được hưởng chiết khấu với số tiền là 112.903.000 đồng nên Công ty đồng ý rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền chiết khấu mà ông S được hưởng là 112.903.000 đồng (Một trăm mười hai triệu chín trăm lẻ ba nghìn đồng) Tiếp tục yêu cầu ông S phải có nghĩa vụ trả cho Công ty số tiền còn nợ là 475.275.000 đồng (305.257.000 đồng + 170.000.000 đồng);

Công ty TNHH N sẽ hoàn trả lại cho ông S Bản chính Giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 67A-004.63 mang tên Nguyễn Cao S sau khi ông S thanh toán xong toàn bộ số tiền cho Công ty (Giấy chứng nhận xe số 004399 do Công an tỉnh A cấp cho ông Nguyễn Cao S ngày 20/10/2011).

Quá trình Tòa án giải quyết, theo Đơn phản t ngày 07/6/2023, Bị đơn ông Nguyễn Cao S trình bày:

Ông không đồng ý số tiền ông phải có trách nhiệm trả cho Công ty N là 588.160.000 đồng vì thực tế số tiền còn lại ông có trách nhiệm trả cho Công ty N chỉ là 475.275.000 đồng.

Thứ nhất, tổng số tiền 588.166.000 đồng mà ông có trách nhiệm trả lại cho Công ty N là không đúng thực tế. Bởi vì theo cuộc họp giữa ông và Công ty N ngày 22/9/2020 (kèm Biên bản họp ngày 22/9/2020) thì tổng số tiền ông phải hoàn trả cho Công ty N là 705.275.000 đồng. Trong biên bản họp ông có làm cam kết thời gian ông hoàn trả tiền cho Công ty N và ông đã trả tiền cho Công ty N cụ thể (Kèm Phiếu chuyển tiền) như sau: Ngày 24/9/2020, chuyển trả 150.000.000 đồng; Ngày 06/10/2020, chuyển trả 20.000.000 đồng; Ngày 23/10/2020 chuyển trả 10.000.000 đồng; Ngày 02/11/2020, chuyển trả 10.000.000 đồng; Ngày 09/11/2020, chuyển trả 10.000.000 đồng; Ngày 30/11/2020, chuyển trả 10.000.000 đồng; Ngày 08/12/2020, chuyển trả 20.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền mà ông đã chuyển trả cho Công ty N là 230.000.000 đồng (Hai trăm ba mươi triệu đồng). Vì vậy, số tiền thực tế còn lại ông có trách nhiệm trả cho Công ty N là 475.275.000 đồng (Bốn trăm bảy mươi lăm triệu hai trăm bảy lăm nghìn đồng).

Thứ hai, Tờ cam kết ngày 17/9/2020 của ông Nguyễn Cao S1 (cha của ông) ký (không có mặt của ông) là do Công ty N tự ghé vào nhà cha của ông tại Quận T, Thành phố Cần Thơ, bắt buộc cha của ông phải có trách nhiệm trả tiền thay ông, cha của ông vừa trải qua bệnh tai biến tâm lý không ổn định nên đã ký cam kết với Công ty N (trong khi đó giữa ông và Công ty N chưa có Biên bản cuộc họp để thống nhất số tiền mà ông phải trả cho Công ty N).

Thứ ba, trong quá trình cam kết trả tiền cho Công ty N, ông đã cố gắng khắc phục trả tiền nhưng do tình hình công việc cá nhân gặp khó khăn nên đã không trả đúng như cam kết với Công ty N.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật về tố tụng, về nội dung của Tòa án như sau:

Về tố tụng:

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã chấp hành đúng theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự. Xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết quy định tại điểm b khoản 1 Điều 32 và điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, cũng như lời trình bày của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Đề nghị HĐXX:

- Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền 112.903.000 đồng.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện còn lại của nguyên đơn. Buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả số tiền 475.275.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Công ty TNHH N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn là ông Nguyễn Cao S phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong quá trình thực hiện công việc theo hợp đồng lao động mà các bên đã ký kết nên quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại về lao động” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ;

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Ông Nguyễn Cao S với tư cách là bị đơn của vụ án có nơi cư trú tại số A, đường Đ, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

[1.3] Bị đơn ông Nguyễn Cao S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông S là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;

[1.4] Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của Công ty N rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 112.903.000 đồng (Một trăm mười hai triệu chín trăm lẻ ba nghìn đồng) nên HĐXX đình chỉ giải quyết đối với một phần yêu cầu khởi kiện đã rút này của nguyên đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 244 BLTTDS;

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện còn lại của nguyên đơn.

Nguyên đơn Công ty TNHH N xác định có ký kết với bị đơn ông Nguyễn Cao S Hợp đồng lao động số 01-2010/CNKG, ngày 02/01/2019; ông S vào làm việc với chức vụ Giám đốc chi nhánh và kiêm Cửa hàng Trưởng chi nhánh Công ty TNHH Nệm Vạn Thành tỉnh N. Quá trình làm việc ông S đã làm thất thoát tiền mặt và tiền hàng hóa của Công ty N tổng cộng là 818.160.000 đồng. Ông S đã hoàn trả cho Công ty được số tiền 230.000.000 đồng (Hai trăm ba mươi triệu đồng) thì ngưng nên tại Đơn khởi kiện ngày 25/4/2023, Công ty yêu cầu ông S phải có nghĩa vụ bồi thường cho Công ty số tiền là 588.160.000 đồng (Năm trăm tám mươi tám triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn xin được rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 112.903.000 đồng (Một trăm mười hai triệu chín trăm lẻ ba nghìn đồng) và chỉ yêu cầu bị đơn phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn với số tiền là 475.275.000 đồng (Bốn trăm bảy mươi lăm triệu hai trăm bảy mươi lăm nghìn đồng); xét thấy yêu cầu này là hoàn toàn phù hợp với lời trình bày thừa nhận số tiền mà ông S gây thiệt hại cho Công ty N chưa được ông S khắc phục là 475.275.000 đồng (Bốn trăm bảy mươi lăm triệu hai trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) theo Đơn yêu cầu phản tố đề ngày 07/6/2023 của ông S. Do đó, yêu cầu khởi kiện còn lại của nguyên đơn là có căn cứ phù hợp quy định tại Điều 129 của Bộ luật lao động 2019 nên được HĐXX chấp nhận.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn đồng ý Công ty N tự nguyện hoàn trả lại cho ông S Bản chính Giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 67A-004.63 mang tên Nguyễn Cao S sau khi ông S thanh toán xong toàn bộ số tiền cho Công ty N, theo Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 004399 do Công an tỉnh A cấp cho ông S ngày 20/10/2011 nên được HĐXX ghi nhận.

[4] Án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì: Nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện, phần yêu cầu khởi kiện còn lại của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên không phải chịu án phí. Hoàn trả cho nguyên đơn Công ty TNHH N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 7.882.000 đồng (Bảy triệu tám trăm tám mươi hai nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001741, ngày 11/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Bị đơn ông Nguyễn Cao S phải chịu án phí lao động sơ thẩm giá ngạch đối với số tiền phải bồi thường là 13.505.500 đồng, làm tròn 13.506.000 đồng (Mười ba triệu năm trăm lẻ sáu nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm b khoản 1 Điều 32; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 244; Điều 266; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Điều 129 Bộ luật Lao động năm 2019;

- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền 112.903.000 đồng (Một trăm mười hai triệu chín trăm lẻ ba nghìn đồng).

2. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện còn lại của nguyên đơn Công ty TNHH N. Buộc bị đơn là ông Nguyễn Cao S phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho Công ty TNHH N số tiền là 475.275.000 đồng (Bốn trăm bảy mươi lăm triệu hai trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Công ty TNHH N có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Cao S Giấy chứng nhận đăng ký xe số 004399, biển số 67A-004.63 của Công an tỉnh A cấp ngày 20/10/2011 do ông Nguyễn Cao S đứng tên sau khi ông S thanh toán nợ xong.

3. Án phí:

Công ty TNHH N không phải chịu án phí. Hoàn trả cho Công ty TNHH N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 7.882.000 đồng (Bảy triệu tám trăm tám mươi hai nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001741, ngày 11/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Bị đơn ông Nguyễn Cao S phải chịu án phí lao động sơ thẩm giá ngạch đối với số tiền phải bồi thường là 13.506.000 đồng (Mười ba triệu năm trăm lẻ sáu nghìn đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

86
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại lao động số 04/2023/LĐ-ST

Số hiệu:04/2023/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành:17/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về