TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 10/2021/DS-ST NGÀY 09/04/2021 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÀI SẢN BỊ XÂM PHẠM
Hôm nay, ngày 09 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án dân sự thụ lý số 94/2020/TLST- DS ngày 30 tháng 6 năm 2020 về “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Đinh Thị M ; sinh năm 1975.
Ông Nguyễn Xuân Tr sinh năm 1969.
Địa chỉ: Tổ x, thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. ( Có mặt ).
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Ánh T , sinh năm 1974.
Địa chỉ: Thôn x, xã L, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. ( Có mặt ).
Người được bị đơn ủy quyền: Anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 1992.
Địa chỉ: y, đường T ( Mặt sau ), phường z, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
( Có mặt ).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Nguyễn Văn T2: Luật sư Nguyễn Phương Đại Nghĩa – Thuộc văn phòng Luật sư Nguyễn Phương Đại Nghĩa – Đoàn luật sư tỉnh Lâm Đồng.
Địa chỉ: 11A, đường T ( Mặt sau ), phường 4, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
( Có mặt ).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
-Công ty trách nhiệm hữu hạn LP Địa chỉ: Số xx, ĐT, phường yy, Bảo Lộc, Lâm Đồng.
- Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Minh K, sinh năm 1956; chức vụ giám đốc.
Địa chỉ: Số xx, ĐT, phường yy, Bảo Lộc, Lâm Đồng. ( Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ).
- Ban quản lý chợ Bảo Lâm do ông Nguyễn Xuân L, sinh năm 1945, chức vụ trưởng ban.
Địa chỉ: Chợ Bảo Lâm ( Thị Trấn L, Bảo Lâm ).
( Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
-Ông Lê Văn Ph, sinh năm 1973.
Địa chỉ: Thôn 1, xã L, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. ( Có mặt ).
-Ông Nguyễn Duy Q, sinh năm 1990.
Địa chỉ: Tổ 7, thôn 2, xã Lộc Châu, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. ( Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ).
-Ông Huỳnh Văn Hg, sinh năm 1991.
Địa chỉ: Thôn 11, xã L, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng ( Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 12-6-2020 cùng những yêu cầu thay đổi bổ sung của nguyên đơn thể hiện:
Vào ngày 04/12/2019 bà Nguyễn Thị Ánh T thuê anh Huỳnh Văn Hg và anh Nguyễn Duy Q đến sạp số 116 chợ Bảo Lâm hàn lại cây treo đồ bị hỏng, trong quá trình hàn, tia hàn bắn ra gây cháy tại sạp quần áo của ông Tr bà M dẫn đến thiệt hại về tài sản, do vây ông Tr và bà M làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị Ánh T phải bồi thường cho ông Tr bà M các khoản sau:
-Tài sản bị cháy ( Quần áo các loại ) là: 47.737.000đồng, theo bản kết luận định giá tài sản số 01/KLĐG ngày 10/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Bảo Lâm.
-Tài sản bị dính bột chữa cháy ( Quấn áo các loại ) là: 42.525.000 đồng, theo bản kết luận định giá tài sản số 25/KLĐG ngày 01/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Bảo Lâm, đối với tài sản này mặc dù không bị cháy nhưng do dập lửa nên phải phun bột chữa cháy.
- Tài sản bị cháy và bị hư hại đối với sạp bán quần áo là: 1.110.000 đồng, theo bản kết luận định giá tài sản số 01/KLĐG ngày 10/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Bảo Lâm.
- Tiền ngày công không lao động được do sạp bị cháy mỗi tháng 6.000.000 đồng x 11 tháng = 66.000.000 đồng.
Tổng cộng vợ chồng ông Tr bà M yêu cầu bà T phải bồi thường 157.372.000 đồng.
Ngoài ra ông Tr bà M còn bị thiệt hại một số tài sản khác như quần áo bị cháy thành tro, móc quần áo bị hư hỏng và bị cháy… ông Tr bà M không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Ánh T trình bày: Vào ngày 04/12/2019 bà có thuê anh Huỳnh Văn Hg và anh Nguyễn Duy Q đến sạp bán quần áo của bà tại chợ Bảo Lâm hàn lại cây treo đồ bị hỏng, trong quá trình hàn, theo bà T do chập điện nên gây ra cháy tại sạp quần áo của ông Tr bà M.
Vợ chồng ông Tr bà M làm đơn khởi kiện yêu cầu bà phải bồi thường tổng số tiền 157.372.000đồng bà không đồng ý bà chỉ đồng ý bồi thường cho vợ chồng ông Tr bà M số tiền 48.847.000đồng, gồm tài sản bị cháy ( Quần áo các loại ) là: 47.737.000đ theo bản kết luận định giá tài sản số 01/KLĐG ngày 10/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Bảo Lâm, tài sản bị cháy và bị hư hại đối với sạp bán quần áo là: 1.110.000 đồng theo bản kết luận định giá tài sản số 01/KLĐG ngày 10/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Bảo Lâm.
Đến ngày 19/3/2021 bà T thay đổi lời trình bày của mình bà đồng ý bồi thường: Tài sản bị cháy ( Quần áo ) là: 47.737.000 đồng, tài sản bị cháy và bị hư hại đối với sạp bán quần áo là: 1.110.000 đồng. Tổng cộng là: 48.847.000đồng, nhưng chia ba phần bằng nhau ( Gồm bà, ông Q và ông Hg ).
Đối với các khoản khác bà T không đồng ý bồi thường.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn Ph hoàn toàn thống nhất với lời trình bày của bà Tuyết.
Ông Huỳnh Văn Hg trình bày ngày 04/12/2019 bà T có nhờ ông Hg đến chợ Bảo Lâm hàn sửa chữa lại một số khung treo quần áo, khi nhờ thì hai bên không thỏa thuận giá cả, bà T chỉ nói ông sửa giúp cũng không làm hợp đồng, ông và anh Q ( là thợ làm công của ông) đến sạp quần áo số 116 của bà T tại chợ Bảo Lâm sau đó bà T chỉ cho ông cách làm theo yêu cầu của bà T là hàn lại 03 khung treo đồ, sát bên vách của bà T là sạp bán quần áo của bà M, khi ông đang hàn thì phát hiện mùi khét và bốc khói từ sạp quần áo của bà M nên ông cùng ông Q đã dùng que hàn, máy cắt, búa khoét lỗ và phá cửa sắt chui vào dội nước để dập tắt lửa trong sạp quần áo của bà M trong khi chờ Công an chữa cháy đến.
Nay vợ chồng bà M ông Tr khởi kiện yêu cầu bà T bồi thường ông không có ý kiến gì, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ông Nguyễn Duy Q trình bày: Vào ngày 04/12/2019 ông và ông Hg đến sạp bán quần áo của bà T để hàn sửa chữa lại một số khung treo quần áo, trước khi xuống sửa chữa khung treo đồ cho bà T ông đã trực tiếp nhắc nhở nhiều lần với bà T là hàn sì rất nguy hiểm dễ gây cháy, quần áo là đồ dễ cháy nên phải dọn dẹp gọn gàng, bà T không thông báo cho ông sạp bên cạnh là sạp bán quần áo, trong quá trình hàn gây ra cháy tại sạp quần áo của ông Tr bà M, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cháy ông không dám khẳng định là do tia hàn rớt xuống làm cháy hay do chập điện.
Nay vợ chồng bà M ông Tr khởi kiện yêu cầu bà T bồi thường ông không có ý kiến gì, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ông Trần Minh K là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH LP, ông Nguyễn Xuân L trưởng ban quản lý chợ Bảo Lâm trình bày: Chợ Bảo Lâm trực thuộc sự quản lý của Công ty TNHH LP, hiện nay Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm đang giải quyết vụ án trên Công ty TNHH LP và Ban quản lý chợ Bảo Lâm không yêu cầu bồi thường gì về vụ việc trên.
Vợ chồng bà M, vợ chồng bà T thống nhất với bản kết luận định giá tài sản số 01/KLĐG ngày 10/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Bảo Lâm kết luật: Đối với áo, quần các loại bị cháy có giá là 47.737.000đồng, Đối với phần thiệt hại tại sạp quần áo, gồm: Tường bằng tôn, cửa kéo bên trong sạp, hệ thống điện, tủ nhôm có giá là 1.110.000 đồng và bản kết luận định giá tài sản số 25/KLĐG ngày 01/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Bảo Lâm kết luật: Đối với áo, quần các loại bị dính bột chữa cháy ( Không bị thiệt hại ) có giá là 42.525.000đồng.
Vợ chồng bà M, vợ chồng bà T không có thắc mắc gì về kết luận định giá trên và không yêu cầu định giá lại trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. ông Q và ông Hg đã được Tòa án thông báo về kết quả định giá trên nhưng không có ý kiến gì.
Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu như trên.
Bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Phước thay đổi một phần lời trình bày của mình, bà T đồng ý bồi thường cho bà M ông Tr số tiền quần áo bị dính bột chữa cháy 20.000.000 đồng, tiền khôi phục sửa chữa sạp và ổn định buôn bán là 02 tháng = 12.000.000đồng ( Mỗi tháng 6.000.000 đồng ), Tổng cộng là 32.000.000 đồng số tiền này bà T đồng ý bồi thường một mình không yêu cầu chia ba phần. Ông Phước thống nhất với ý kiến của bà Tuyết.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Nguyễn Văn T2: Luật sư Nguyễn Phương Đại Nghĩa trình bày bài bào chữa: Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ ý kiến của bị đơn vì toàn bộ hậu quả thiệt hại tài sản của vợ chồng ông Tr bà M đều do lỗi của ông Q, ông Hg và bà T do vậy ông Q, ông Hg và bà T phải cùng chịu chung hậu quả này.
Sau khi Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân Trường và bà Đinh Thị M về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm” với bà Nguyễn Thị Ánh T .
Buộc bà Nguyễn Thị Ánh T phải có trách nhiệm bồi thường cho ông Nguyễn Xuân Tr và bà Đinh Thị M số tiền 48.282.333 đồng.
Về án phí : Đề nghị Hội đồng xét xử buộc nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH LP ông Trần Minh K, ông Nguyễn Xuân L, ông Nguyễn Duy Q, ông Huỳnh Văn Hg có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông Trần Minh K, ông Nguyễn Xuân L, ông Nguyễn Duy Q, ông Huỳnh Văn Hg.
[2] Qua xem xét yêu cầu của các bên cùng chứng cứ do đương sự cung cấp và do Tòa án thu thập thấy rằng: Nguyên nhân dẫn đến cháy sạp quần áo của ông Tr bà M là trong quá trình hàn vảy hàn, tia lửa hàn có nhiệt độ cao từ 1.700o C đến 1.800 o C bắn ra tiếp xúc với bề mặt quần áo đang treo trên giá quần áo góc sạp phía sau bên phải và quần áo được xếp chồng tại góc phía sau bên phải gây nên bắt cháy tại sạp quần áo của bà Đinh Thị M ( Theo Thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm số 40 ngày 23/4/2020 của Công an huyện Bảo Lâm ).
Do vậy nguyên nhân dẫn đến thiệt hại về tài sản của ông Tr bà M là do lỗi hoàn toàn của ông Hg và ông Q được bà T nhờ đến hàn lại cây treo đồ bị hỏng. Hành vi của bà Tuyết, ông Hg và ông Q đã vi phạm luật phòng cháy chữa cháy do thiệt hại về tài sản dưới 100.000.000 đồng nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội “ Vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy” nên Công huyện Bảo Lâm đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với bà Tuyết, ông Hg và ông Q, nêu bà Tuyết, ông Hg và ông Q phải cùng gánh chịu hậu quả thiệt hại tài sản của vợ chồng ông Tr bà M. Tuy nhiên đối với số tiền ngày công không lao động được do sạp bị cháy mỗi tháng 6.000.000 đồng x 11 tháng = 66.000.000 đồng thấy rằng trước khi bán quần áo bà M có nhiều công việc khác để làm hơn nữa bà còn có vườn, nên sau khi sạp bị cháy bà có thể làm việc khác để thu nhập, đồng thời sau khi cháy sạp trong một thời hạn bà có thể khắc phục để tiếp tục buôn bán. Tại phiên tòa bà Tuyến đồng ý bồi thường số tiền 12.000.000 đồng ( 6.000.000 đồng/ tháng ) khôi phục sửa chữa sạp và ổn định buôn bán thấy rằng mức bà T đồng ý bồi thường là phù hợp với quy định của pháp luật và thực tế nên chỉ chấp nhận mức bồi thường này. Đối với số tiền quần áo bị dính bột chữa cháy bà T đồng ý bồi thường 20.000.000 đồng là phù hợp vì toàn bộ hậu quả ( Thiệt hại về tài sản ) là do bà Tuyết, ông Hg và ông Q gây ra nên ông Hg, ông Q và bà T phải chịu chung hậu quả này. Để chữa cháy lực lượng chức năng đã thực hiện đúng theo quy định ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, số quần áo bị dính bột chữa cháy hiện nay không thể bán được. Tài sản bị dính bột chữa cháy là 42.525.000đồng chia ba phần thì mỗi người phải chịu 14.175.000 đồng nhưng một mình bà T đã đồng ý bồi thường 20.000.000 đồng.
[3] Do vậy áp dụng các Điều 584, Điều 585 và Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015, cần chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Tr bà M, gồm các khoản thiệt hại: Tài sản bị cháy ( Quần áo các loại ) là: 47.737.000 đồng, tài sản bị dính bột chữa cháy ( Quần áo các loại ) là: 42.525.000 đồng, tài sản bị cháy và bị hư hại đối với sạp bán quần áo là: 1.110.000 đồng, 02 tháng khôi phục sửa chữa sạp và ổn định buôn bán là 12.000.000 đồng (6.000.00đồng /tháng).
[4] Như đã phân tích ở trên nguyên nhân dẫn đến thiệt hại về tài sản của ông Tr bà M là do lỗi hoàn toàn của ông Hg, ông Q và bà T nêu bà Tuyết, ông Hg và ông Q phải cùng gánh chịu hậu quả thiệt hại, Căn cứ vào Điều 587 Bộ luật dân sự năm 2015 buộc bà Tuyết, ông Hg và ông Q phải bồi thường cho ông Tr bà M số tiền : Tài sản bị cháy ( Quần áo ) là: 47.737.000 đồng, tài sản bị cháy và bị hư hại đối với sạp bán quần áo là: 1.110.000 đồng. Tổng cộng là: 48.847.000đồng, theo tỷ phần mỗi người 16.282.333 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã phân tích giải thích các quy định của pháp luật nhưng vợ chồng ông Tr bà M cương quyết không khởi kiện ông Hg và ông Q mà chỉ khởi kiện bà Tuyết, do vậy Hội đồng xét xử chỉ có căn cứ buộc bà T phải bồi thường cho ông Tr bà M số tiền 16.282.333 đồng + 20.000.000đ tiền quần áo bị dính bột chữa cháy và 12.000.000 đồng tiền khôi phục sửa chữa sạp để ổn định buôn bán, tổng cộng bà T phải bồi thường cho ông Tr bà M 48.282.333 đồng. Sau này ông Tr bà M( nếu có yêu cầu ) thì có quyền khởi kiện ông Hg và ông Q bằng một vụ án Dân sự khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
[5] Ngoài ra ông Tr bà M còn bị thiệt hại một số tài sản khác như quần áo bị cháy thành tro (Cháy hết không định giá được ), móc quần áo bị hư hỏng và bị cháy… ông Tr bà M không yêu cầu Tòa án giải quyết do vậy Hội đồng xét xử không đề cập đến.
[6] Đối với phần tài sản bị cháy hiện nay không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử không đề cập đến, tài sản bị dính bột chữa cháy do bà T đã bồi thường trị giá bằng tiền một phần cho vợ chồng ông Tr bà M ( Bà T không yêu cầu nhận lại phần tương đương với nghĩa vụ bồi thường của mình phần còn lại liên quan tới ông Q và ông Hg) nếu ông Tr bà M không khởi kiện ông Q và ông Hg trong một thời hạn do pháp luật quy định thì tài sản bị dích bột chữa cháy được giao lại cho ông Tr bà M, nếu ông Tr bà M khởi kiện ông Q và ông Hg bằng một vụ án dân sự khác thì tài sản bị dích bột chữa cháy sẽ được giải quyết trong vụ án dân sự đó. Hiện nay tài sản này đang được tạm giữ tại Công an huyện Bảo Lâm.
[7] Về án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bà T phải bồi thường cho vợ chồng ông Tr bà M số tiền 48.282.333 đồng nên bà T phải nộp 2.414.116 đồng án phí DSST (48.282.333 đồng x 5% = 2.414.116 đồng).
Vợ chồng bà M ông Tr yêu cầu bà T phải bồi thường 157.372.000 đồng, Tòa án chỉ chấp nhận 48.282.333 đồng, bị bác 109.089.667 đồng nên vợ chồng bà M ông Tr phải nộp 5.454.483 đồng án phí DSST trên số tiền yêu cầu bị bác (109.089.667 đồng x 5% =5.454.483 đồng).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 207, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 584, Điều 585, Điều 587 và Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015.
1/ Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân Tr và bà Đinh Thị M về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm” với bà Nguyễn Thị Ánh T .
Buộc bà Nguyễn Thị Ánh T phải có trách nhiệm bồi thường cho vợ chồng ông Nguyễn Xuân Tr và bà Đinh Thị M số tiền 48.282.333 ( Bốn mươi tám triệu hai trăm tám mươi hai ngàn ba trăm ba ba ) đồng “Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án ( đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án ) cho đến khi thi hành án xong bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
2/ Đối với tài sản bị dính bột chữa cháy ông Tr bà M không khởi kiện ông Q và ông Hg trong một thời hạn do pháp luật quy định thì được giao lại cho ông Tr bà M, nếu ông Tr bà M khởi kiện ông Q và ông Hg bằng một vụ án dân sự khác thì sẽ được giải quyết trong vụ án dân sự đó. Hiện nay tài sản này đang được tạm giữ tại Công an huyện Bảo Lâm ( Danh sách quần áo bị dính bột chữa cháy được gi nhận tại kết luận định giá tài sản số 25/KLĐG ngày 01/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Bảo Lâm ).
3/ Về án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bà Nguyễn Thị Ánh T phải nộp 2.414.116 đồng án phí Dân sự sơ thẩm.
Buộc ông Nguyễn Xuân Tr và bà Đinh Thị M phải nộp 5.454.483 đồng án phí Dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 8.550.000 đồng tạm ứng án phí bà M ông Tr đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0019750 ngày 29 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.
Hoàn trả lại cho ông Nguyễn Xuân Tr và bà Đinh Thị M 3.095.517 đồng tiền tạm ứng án phí.
Báo cho đương sự có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án (Hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự ), để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
( Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chỉ được quyền kháng cáo phần có liên quan ).
“Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm số 10/2021/DS-ST
Số hiệu: | 10/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 09/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về