TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RG, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 24/2023/DS-ST NGÀY 25/05/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
Trong ngày 25 tháng 5 năm 2023, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố R G xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 87/2021/TLST-DS ngày 12 tháng 4 năm 2021, về việc: “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2023/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 4 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Lưu Thị H, sinh năm 1960. Địa chỉ 1: Số 342/52/5 Ngô Quyền, phường Vĩnh Lạc, TP. R G, tỉnh G. (Có mặt).
Địa chỉ 2: Số 810 N T Đ, khu phố P K, phường V H, TP. R G, tỉnh G.
2. Bị đơn: Ông Lê Ngọc Minh S, sinh năm 1996. Địa chỉ: Số 37A (958) N T Đ, khu phố V V, phường V H, TP. R G, tỉnh G. (Vắng mặt lần thứ 2).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Dương Hồ Tr, sinh năm 1990. Địa chỉ: Số 810 N T Đ, khu phố P K, phường V H, TP. R G, tỉnh G. (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện vụ án dân sự đề ngày 07/07/2020; Đơn khởi kiện bổ sung ngày 03/01/2023 và trong quá trình tố tụng, Nguyên đơn bà Lưu Thị H trình bày: Ngày 16/01/2020 Lê Minh S điều khiển xe mô tô biển số 68C-xxxxx lưu thông trên đường N T Đ, phường V H, thành phố R G chạy quá tốc độ đâm thẳng vào hàng rào trước nhà bà H, gây tai nạn làm cho bà H bị thương tích tỷ lệ 30%.
Vụ án được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R G thụ lý. Đến ngày 10/4/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R G ban hành Thông báo số 188/TB-CSĐT về việc không khởi tố vụ án hình sự. Tại thông báo số 188/TB-CSĐT đã kết luận: Nguyên nhân chính dẫn đến tại nạn giao thông là do Lê Ngọc Minh S điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 68C-xxxxx không chú ý quan sát gây tai nạn giao thông. Tuy nhiên do tỷ lệ thương tích của bà H là 30% nên hành vi của Lê Ngọc Minh S không cấu thành tội phạm vi phạm về tham gia giao thông đường bộ. Sau khi tai nạn xảy ra bà H đã điều trị tại các Bệnh viện Đa khoa tỉnh G, Bệnh viện Quân Y 121 thành phố Cần Thơ; Bệnh viện Bình an - G, tổng cộng là 38 ngày. Quá trình làm việc tại Cơ quan điều tra, đã được Cơ quan điều tra cho hai bên thương lượng hòa giải nhưng không thành, để bảo vệ quyền và lợi ích của mình nên bà H khởi kiện đến Tòa án thành phố R G Giá.
- Tại đơn khởi kiện ngày 07/7/2020 và tại các phiên hòa giải bà H yêu cầu ông Lê Ngọc Minh S phải bồi thường thiệt hại tổng số tiền là 74.485.000 đồng, cụ thể:
+ Chi phí đóng tiền thuốc tại bệnh viện Đa khoa G là 9.155.000 đồng và Tiền ăn và tiền mua đồ dùng ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh G là 8.138.000 đồng.
+ Chi phí đóng tiền tại bệnh viện Quân Y 121 là 20.404.000 đồng và Tiền ăn và mua đồ dùng ở bệnh viện Quân Y 121 là 7.402.000 đồng. Tiền xe đi về bệnh viện Quân y 121 là 1.700.000 đồng, tiền xe đi khám bệnh tại bệnh viện Quân y là 1.700.000 đồng. Tổng chi phí là 50.685.000 đồng.
+ Chi phí đóng tiền ở bệnh viện Bình An tỉnh G là 2.186.000 đồng.
+ Tiền ngày công lao động cho 02 người nuôi bệnh trong thời gian bà H điều trị thương tích số tiền là 23.800.000 đồng.
Tại phiên tòa hôm nay, sau khi được Tòa án giải thích các quy định của pháp luật và đối chiếu lại các hóa đơn chứng từ bà H xin thay đổi yêu cầu khởi kiện và xác nhận yêu cầu khởi kiện cuối cùng như sau: Yêu cầu ông S phải bồi thường thiệt hại do tai nạn gây ra, bao gồm các khoản như sau:
+ Chi phí điều trị ở Bệnh viện Đa khoa G, sau khi trừ Quỹ BHYT số tiền còn lại là 481.765 đồng + Chi phí điều trị ở Bệnh viện Quân Y 121 là 15.243.761 đồng.
+ Chi phí điều trị tại Bệnh viện Bình An, sau khi trừ Quỹ BHYT số tiền còn lại là 864.666 đồng.
+ Thu nhập bị mất của 01 người nuôi bệnh trong 38 ngày Lưu Thị H nằm viện điều trị là 11.400.000 đồng (300.000đ/ngày x 38 ngày).
đồng.
+ Tiền tổn thất tinh thần tương đương 20 lần mức lương cơ sở là 29.800.000 Tổng cộng số tiền Lê Ngọc Minh S phải bồi thường là 57.790.192đ (Năm mươi bảy triệu bảy trăm chín mươi nghìn một trăm chín mươi hai đồng). Ngoài ra, bà H không có yêu cầu gì khác.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Dương Hồ Tr trình bày: ông Tr là con ruột của bà H. ông Tr thống nhất với toàn bộ nội dung mà bà H trình bày. ông Tr xác nhận sau khi tai nạn xảy ra ông Tr là người trực tiếp nuôi mẹ là bà H tại các bệnh viện. Nghề nghiệp của ông Tr là Thợ bê sơn tường thu nhập bình quân mỗi ngày thấp nhất là 300.000 đồng. ông Tr yêu cầu Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H, trong tổng số tiền mà bà H yêu cầu là 57.790.192 đồng, bao gồm có cả phần Tiền ngày công lao động cho 01 người nuôi bệnh (ông Tr là người nuôi bệnh) trong thời gian điều trị thương tích là 38 ngày với tổng số tiền là 11.400.000 đồng (300.000đ/ngày x 38 ngày). Do đó, ông Tr không có yêu cầu độc lập trong vụ án này.
* Bị đơn ông Lê Ngọc Minh S vắng mặt không có lý do, không có văn bản thể hiện ý kiến và không cử người đại diện tham gia tố tụng.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố R G phát biểu ý kiến:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án thời điểm này thấy rằng Thẩm phán đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 48 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa: Tại phiên toà hôm nay, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về nguyên tắc xét xử, thành phần Hội đồng xét xử, các bước tiến hành thủ tục phiên tòa sơ thẩm, đảm bảo tính khách quan của vụ án.
Đối với những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng về quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng. Bị đơn ông Lê Ngọc Minh S vắng mặt theo thông báo triệu tập của Tòa án là chưa đúng quy định tại Điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 584, 585; khoản 1 Điều 586, 590, 601 của Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP, ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Lưu Thị H về việc yêu cầu ông Lê Ngọc Minh S phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe của bà H bị xâm phạm đối với chi phí khám chữa bệnh ở 03 Bệnh viện sau khi trừ đi các khoản đã thanh toán từ BHYT, bồi thường do thu nhập bị mất của 01 người nuôi bệnh trong 38 ngày bà H nằm viện điều trị và yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần tương đương 20 lần mức lương cơ sở.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa; Giấy báo phiên tòa hợp lệ nhưng bị đơn ông Lê Ngọc Minh S vắng mặt. Tại phiên tòa các đương sự có mặt đồng ý xét xử vắng mặt bị đơn. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thống nhất xử vắng mặt bị đơn ông Lê Ngọc Minh S.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà H yêu cầu bị đơn ông S phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe của bà H bị xâm phạm tổng số tiền là 57.790.192 đồng, ngoài ra không có yêu cầu gì khác. Căn cứ khoản 6 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự, tranh chấp giữa các bên được xác định là: “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”. Bị đơn ông S có địa chỉ cư trú tại: Số 37A (958) N T Đ, khu phố V V, phường V H, TP. R G, tỉnh G. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố R G, tỉnh G.
[3] Về phạm vi khởi kiện: Tại đơn khởi kiện ngày 07/7/2020 Nguyên đơn bà H yêu cầu bị đơn ông S phải bồi thường thiệt hại số tiền là 74.485.000 đồng, trong đó: Các chi phí tại Bệnh viện Đa khoa G là 8.138.000 đồng; tại Bệnh viện Quân Y 121 là 23.804.000 đồng; Tại Bệnh viện Bình An là 2.186.000 đồng; Tiền mất thu nhập cho người nuôi bệnh là 23.800.000 đồng.
Ngày 03 tháng 01 năm 2023 Nguyên đơn bà Lưu Thị H có yêu cầu khởi kiện bổ sung, cụ thể: Chi phí điều trị ở Bệnh viện Đa khoa G là 9.155.300 đồng; tại Bệnh viện Quân Y 121 là 20.404.000 đồng; Tại Bệnh viện Bình An là 2.186.000 đồng; Thu nhập bị mất của 01 người nuôi bệnh là 10.200.000 đồng; Tiền tổn thất tinh thần tương đương 30 lần mức lương cơ sở là 44.700.000 đồng. Tổng cộng, số tiền Lê Ngọc Minh S phải bồi thường là 86.645.000đ.
Tại phiên tòa bà H xin thay đổi yêu cầu khởi kiện và xác nhận yêu cầu khởi kiện cuối cùng, yêu cầu ông S phải bồi thường thiệt hại các khoản gồm: Chi phí điều trị ở Bệnh viện Đa khoa G, sau khi trừ Quỹ BHYT số tiền là 481.765 đồng; Tại Bệnh viện Quân Y 121 là 15.243.761 đồng; Tại Bệnh viện Bình An, sau khi trừ Quỹ BHYT số tiền còn lại là 864.666 đồng; Thu nhập bị mất của 01 người nuôi bệnh là 11.400.000 đồng; Tiền tổn thất tinh thần tương đương 20 lần mức lương cơ sở là 29.800.000 đồng. Tổng cộng số tiền Lê Ngọc Minh S phải bồi thường là 57.790.192 đồng; ngoài ra, bà H không có yêu cầu gì khác. Xét thấy, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của bà H không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu. Căn cứ vào khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Lưu Thị H.
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu của Nguyên đơn bà Lưu Thị H yêu cầu ông Lê Ngọc Minh S phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe của bà H bị xâm phạm là có cơ sở để chấp nhận. Bỡi lẽ, việc ông S điều khiển xe môtô biển số 68C1-xxxxx gây tai nạn cho bà H, làm bà H bị thiệt hại sức khỏe, bị thương tích tỷ lệ 30% phải điều trị tại các bệnh viện là có thật, đúng với diễn biến thực tế đã xảy ra. Căn cứ vào các tài liệu Biên bản khám nghiệm hiện trường và Sơ đồ hiện trường ngày 16/01/2020; Thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm số 188/TB-CSĐT ngày 10/4/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố R G đã kết luận: Nguyên nhân chính dẫn đến tại nạn giao thông là do Lê Ngọc Minh S điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 68C-xxxxx không chú ý quan sát gây tai nạn giao thông. Tuy nhiên do tỷ lệ thương tích của bà H là 30% nên hành vi của Lê Ngọc Minh S không cấu thành tội phạm vi phạm về tham gia giao thông đường bộ. ông S là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, lỗi hoàn toàn thuộc về ông S. Do đó, ông S phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ chi phí thiệt hại theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật dân sự, cụ thể:
+ Đối với các khoản chi phí gồm: Chi phí điều trị tại các Bệnh viện Đa khoa tỉnh G, Bệnh viện Quân Y 121 thành phố Cần Thơ; Bệnh viện Bình an - G, tổng cộng là 16.590.192 đồng và tiền thu nhập bị mất của 01 người nuôi bệnh trong 38 ngày bà H nằm viện điều trị là 11.400.000 đồng. Tổng cộng số tiền là 27.990.192 đồng. Xét thấy, các khoản chi phí nêu trên đều có hóa đơn chứng từ, đúng thực tế thiệt hại sức khỏe đã xảy ra và phù hợp với quy định tại Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do các yêu cầu này của bà H là có căn cứ chấp nhận.
+ Đối với yêu cầu bồi thường tiền tổn thất tinh thần số tiền 29.800.000 đồng, tương đương 20 lần mức lương cơ sở. Xét thấy, việc ông S gây tai nạn giao thông dẫn đến sức khỏe của bà H bị xâm phạm, bị giảm xúc và ảnh hưởng đến tinh thần, đến quá trình sinh hoạt hàng ngày nên bà H yêu cầu ông S phải bồi thường tổn thất tinh thần và mức bồi thường với số tiền 29.800.000 đồng (tương đương 20 tháng lương cơ sở x 1.490.000đ/tháng) là có cơ sở được quy định tại khoản 2 Điều 590 của Bộ luật dân sự.
Trong phần nghị án, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H, buộc ông S phải có trách nhiệm bồi thường cho bà H tổng cộng số tiền là 57.790.192đ (Năm mươi bảy triệu bảy trăm chín mươi nghìn một trăm chín mươi hai đồng).
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:
+ Bị đơn ông S phải chịu án phí trên số tiền phải bồi thường cho bà H là 57.790.192 đồng, được tính như sau: 57.790.192 đồng x 5% = 2.889.509 đồng. Như vậy, ông S phải nộp án phí số tiền là 2.889.509đ (Hai triệu tám trăm tám mươi chín nghìn năm trăm lẽ chín đồng).
+ Nguyên đơn bà Lưu Thị H là người cao tuổi và yêu cầu bồi thường về sức khỏe thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, theo quy định tại điểm d, đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 26, 35, 39, 92, 147, 244, 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 357, 584, 585, 586, 590, 601 của Bộ luật dân sự; Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Áp dụng Điều 6; điểm d, đ khoản 1 Điều 12; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Lưu Thị H đối với bị đơn ông Lê Ngọc Minh S, về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”.
2. Buộc ông Lê Ngọc Minh S phải bồi thường cho bà Lưu Thị H thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm tổng cộng số tiền là 57.790.192đ (Năm mươi bảy triệu bảy trăm chín mươi nghìn một trăm chín mươi hai đồng).
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
+ Ông Lê Ngọc Minh S phải nộp án phí số tiền là 2.889.509đ (Hai triệu tám trăm tám mươi chín nghìn năm trăm lẽ chín đồng).
+ Nguyên đơn bà Lưu Thị H là người cao tuổi và yêu cầu bồi thường về sức khỏe thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, theo quy định tại điểm d, đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
4. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm số 24/2023/DS-ST
Số hiệu: | 24/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về