Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm số 07/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 07/2023/DS-ST NGÀY 31/03/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM

Ngày 31 tháng 3 năm 2023, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 68/2022/TLST-DS ngày 18 tháng 11 năm 2022 về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2023/QĐST-DS ngày 28 tháng 2 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 08/QĐST-DS ngày 15 tháng 3 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N, nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn:

+ Ông Nguyễn Văn T, nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn T, nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị H, nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện ngày 22/7/2022, Đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ngày 17/11/2022 và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Văn N trình bày:

Ông và ông Nguyễn Văn T là anh em ruột, do có mâu thuẫn với nhau về việc tranh chấp đất đai trước đó. Sáng ngày 24/5/2017 ông và ông T lại xẩy ra cãi nhau tại thôn H, xã H, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng thì ông T đã dùng tay chân đánh ông, sau đó con trai ông T là anh Nguyễn Văn T ra cùng tham gia đánh ông. Ông bị bố con ông T dùng tay chân và tuýp sắt đánh gây thương tích làm ông bị gẫy xương hàm trên bị tổn thương cơ thể là 09% sức khỏe, ông phải điều trị thương tích ở bệnh viện từ ngày 27/5/20217 đến ngày 01/6/2017. Thương tích của ông do bố con ông T gây nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan công an huyện An Dương không khởi tố đối với bố con ông T. Ngày 27/10/2017 ông và ông T tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, ông đã gây thương tích cho ông T và bị truy tố về tội Cố ý gây thương tích. Tại bản án số 27/2018/HS-ST ngày 27/4/2018 Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đã xử phạt ông 24 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Từ ngày 13/6/2018 đến ngày 16/01/2020 ông đi chấp hành hình phạt tù nên ông chưa khởi kiện ông T, anh T để yêu cầu bồi thường thiệt hại nên nay ông yêu cầu ông T và anh T phải liên đới bồi thường thiệt hại cho ông với tổng số tiền là 143.049.034 đồng, cụ thể:

1. Tiền viện phí, khám điều trị thương tích (từ ngày 27/5/2017 đến ngày 01/6/2017) và tiền thuốc có hóa đơn là 16.249.034 đồng.

2. Tiền mất thu nhập của ông do nghỉ điều trị thương tích trong thời gian là 03 tháng 06 ngày (96 ngày), ông làm lao động tự do thu nhập bình quân là 500.000 đồng/ngày x 96 ngày = 48.000.000 đồng.

3. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của ông là 50.000.000 đồng.

4. Tiền công người chăm sóc cho vợ ông là bà Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc ông trong thời gian ông N điều trị thương tích, bà H làm lao động tự do thu nhập bình quân là 300.000đồng/ngày x 96 ngày = 28.800.000 đồng.

Việc ông nghỉ lao động để điều trị thương tích với thời gian 96 ngày không theo chỉ định của bác sỹ mà do ông tự nghỉ đến khi sức khỏe bình phục.

Bị đơn ông Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Văn T không có quan điểm trong quá trình Tòa án giải quyết quyết vụ án, lời khai của bị đơn tại Cơ quan điều tra thể hiện:

Ông T và ông N có xảy ra xô xát vào ngày 24/5/2017 do có mâu thuẫn trước đó về đất đai. Ông T chỉ đánh ông N bằng chân tay không dùng hung khí gì khác, còn anh T chỉ vào can ngăn không tham gia đánh ông N. Ông T cũng bị ông N đánh nên ông T không phải bồi thường cho ông N.

Anh Nguyễn Văn T khai: Không tham gia cùng ông T đánh ông N mà chỉ vào can ngăn ông T và ông N đánh nhau.

Tại bản tự khai ngày 17 tháng 11 năm 2022 và tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H trình bày:

Ngày 24 tháng 5 năm 2017 bà không trực tiếp chứng kiến ông Nguyễn Văn N bị ông Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Văn T đánh gây thương tích. Thương tích của ông N do ông T và anh T gây ra bị tổn hại 09% sức khỏe như lời khai của ông N. Khi ông N bị thương, bà phải nghỉ việc để chăm sóc ông N trong thời gian điều trị ở bệnh viện và nghỉ ngơi phục hồi sức khỏe ở nhà như ông N trình bày. Bà làm lao động tự do thu nhập trung bình là 300.000 đồng/ngày và thời gian bà nghỉ việc ở nhà chăm sóc ông N là 96 ngày. Vì toàn bộ số tiền viện phí, chi phí điều trị thương tích cho ông N đều là tiền của vợ chồng bà bỏ ra nên bà đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Nghiện và đề nghị Tòa án buộc ông T và anh T phải bồi thường cho ông N số tiền là 143.049.034 đồng.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành các quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 584, 585, 590 của Bộ luật Dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N đối với bị đơn ông Nguyễn Văn T. Buộc ông Nguyễn Văn T phải bồi thường thiệt hại cho ông N với các chi phí liên quan đến tiền viện phí, thuốc, tiền mất thu nhập của ông N, tiền công chăm sóc của bà Hương và tiền tổn thất tinh thần của ông N trên cơ sở quy định của pháp luật. Về án phí: Ông T phải chịu án phí theo quy định pháp luật, ông N được miễn nộp án phí đối với yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm là tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại khoản 6 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Văn T cư trú tại huyện An Dương nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về viêc vắng mặt của bị đơn: Bị đơn ông Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Văn T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Căn cứ lời khai của nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và tài liệu do Tòa án thu thập được có đủ căn cứ xác định: Sáng ngày 24/5/2017 tại thôn H, xã H, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, giữa ông N và ông T có xẩy ra xô xát, cãi đánh nhau. Ông T dùng tay chân đánh gây thương tích đối với ông N. Theo bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 305/2017/TgT ngày 20/6/2017 của Trung tâm Pháp y Hải Phòng kết luận: Ông N bị chấn thương gây gẫy vỡ xương hàm trên và xây xước sưng nề tím một số nơi đã được điều trị tương đối ổn định tốt. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do gẫy xương hàm trên ổn định tốt là 09%. Vết xây xước da sau tai trái quá nhỏ nên không tính tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể. Các vết sưng nề tím không có hướng dẫn tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể. Các thương tích trên có đặc điểm do vật tày tác động trực tiếp gây nên (tay chấn cũng được coi là vật tày). Do thương tích của ông N không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Công an huyện An Dương đã ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 04 ngày 08/12/2017 đồng thời xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn Văn T tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 353/QĐ-XPVPHC ngày 27/12/2017 với hành vi xâm hại sức khỏe người khác với số tiền phạt là 2.500.000đồng. Tại quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 04 ngày 08/12/2017 Công an huyện An Dương cũng xác định không có cơ sở xác định thương tích của ông N do bị ông T và anh T dùng tuýp sắt gây nên như lời khai của ông N. Do vậy, thương tích của ông N là do ông T gây nên, vì vậy ông T phải chịu trách nhiệm bồi thường thương tích cho N theo khoản 1 điều 584 của Bộ luật Dân sự. Nguyên đơn cho rằng thương tích của mình còn do anh T gây ra và yêu cầu anh T phải liên đới bồi thường là không có căn cứ chấp nhận.

[4] Xét các khoản tiền nguyên đơn yêu cầu:

[4.1] Đối với chi phí viện phí, khám tại bệnh viện từ ngày 27/5/2017 đến ngày 01/6/2017 và thuốc điều trị thương tích có hóa đơn là 16.249.034 đồng, đây là những chi phí thực tế ông N đã bỏ ra để điều trị thương tích nên có căn cứ chấp nhận.

[4.2] Về khoản tiền mất thu nhập của ông N và người chăm sóc bà Nguyễn Thị H: Ông N và bà Hương trình bày đều làm lao động tự do, thu nhập của ông N là 500.000đồng/ngày và thu nhập của bà Hương là 300.000đồng/ngày. Xét mức thu nhập như nguyên đơn trình bày là cao nên mức thu nhập để làm căn cứ tính khoản tiền mất thu nhập của nguyên đơn là 300.000đồng/ngày. Nguyên đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày, cả hai phải nghỉ lao động trong thời gian 96 ngày để nguyên đơn điều trị thương tích, ngoài lời khai ông N và bà Hương không cung cấp được tài liệu, chứng minh thời gian nghỉ việc để điều trị thương tích là 96 ngày nên thời gian nguyên đơn được chấp nhận để tính thu nhập bị mất là 30 ngày x 300.000đồng/ngày = 9.000.000 đồng. Thương tích của nguyên đơn vẫn có thể đi lại và tự phục vụ sinh hoạt cá nhân nên chỉ có căn cứ chấp nhận tiền công người chăm sóc trong thời gian ông N điều trị thương tích ở bệnh viện từ ngày 27/5/2017 đến ngày 01/6/2017 là 06 ngày x 300.000đồng/ngày = 1.800.000đồng.

[4.3] Về khoản tiền thiệt hại do tổn thất tinh thần: Số tiền nguyên đơn yêu cầu bồi là 50.000.000đồng là quá cao so với thương tích nên mức thiệt hại về tinh thần được xem xét chấp nhận là 01 tháng lương cơ sở là 1.490.000đồng.

[5] Xét về lỗi: Nguyên đơn và bị đơn có mâu thuẫn với nhau từ trước. Ngày 24/5/2017 hai bên tiếp tục xảy ra cãi nhau, việc bị đơn ông Nguyễn Văn T dùng tay chân gây thương tích đối với ông N là thuộc lỗi hoàn toàn của bị đơn. Do vậy, ông T phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông N với số tiền là 28.539.000 đồng làm tròn (16.249.034 đồng + 9.000.000 đồng + 1.800.000đồng + 1.490.000đồng) - quy định tại Điều 585 và Điều 590 của Bộ luật Dân sự.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo:

[6.1] Về án phí: Bị đơn ông Nguyễn Văn T phải chịu án phí đối với phần yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận. Nguyên đơn ông Nguyễn Văn N được miễn án phí đối với phần yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận.

[6.2] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 6 Điều 26; Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 584, 585, 586 và 590 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06 tháng 9 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; điểm d khoản 1 Điều 12; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N: Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn T phải bồi thường cho ông Nguyễn Văn N số tiền 28.539.000 đồng (Hai mươi tám triệu năm trăm ba mươi chín nghìn đồng). Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn anh Nguyễn Văn T.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong khoản tiền nêu trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Về án phí: Nguyên đơn được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện không được Tòa án chấp nhận. Bị đơn ông Nguyễn Văn T phải chịu 1.426.000 đồng (Một triệu bốn trăm hai mươi sáu nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm số 07/2023/DS-ST

Số hiệu:07/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:31/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về