Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại do danh dự bị xâm phạm và xin lỗi công khai số 01/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 01/2023/DS-ST NGÀY 26/07/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO DANH DỰ BỊ XÂM PHẠM VÀ XIN LỖI CÔNG KHAI

Ngày 26 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 02/2023/TLST-DS ngày 14/02/2023 về việc “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do danh dự bị xâm phạm và xin lỗi công khai” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2023/QĐXXST- DS ngày 07/6/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2023/QĐST- DS ngày 30/6/2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trần Văn Q, sinh năm 1977; địa chỉ: thôn Đội 3, xã H, huyện B, tỉnh Hà Nam; có mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1972; địa chỉ: thôn Đội 3, xã H, huyện B, tỉnh Hà Nam; có mặt.

3. Người làm chứng:

3.1. Ông Ngô Hải Tr, sinh năm 1941; có mặt.

3.2. Ông Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1942; có mặt.

3.3. Ông Lã Văn Đ, sinh năm 1966; có mặt.

3.4. Ông Hà Văn Đ1, sinh năm 1968; có mặt.

3.5. Ông Nguyễn Tri L, sinh năm 1974; có mặt.

3. 6. Bà Trần Thị Q, sinh năm 1958; vắng mặt.

3.7. Bà Ngô Thị G, sinh năm 1960; có mặt.

3.8. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1954; có mặt.

3.9. Ông Lã Đức Th, sinh năm 1948; có mặt.

3.10. Ông Lã Trung T, sinh năm 1950; có mặt.

Đều cùng địa chỉ: thôn Đội 3, xã H, huyện B, tỉnh Hà Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà nguyên đơn ông Trần Văn Q trình bày ý kiến:

Do tư thù cá nhân với ông nên ông Nguyễn Văn H đã kết bè với một số đảng viên trong thôn lợi dụng tính dân chủ, làm đơn đề nghị tố cáo ông từ tháng 7/2017 lên Ủy ban nhân dân xã H, huyện B, tỉnh Hà Nam và đã được Ủy ban nhân dân xã thông báo là ông H có sự nhầm lẫn. Tuy nhiên, do ông là Trưởng thôn, Trưởng kiểm soát HTX DVNN H, đại biểu HĐND nên ông đã bỏ qua cho ông H rất nhiều lần. Song ông H vẫn còn tư thù cá nhân bởi ông H bị xã H cho máy xúc tháo rỡ phần ông H lấn chiếm lòng, lề mương. Ông H cho rằng ông vừa Trưởng thôn, Trưởng kiểm soát HTX không bảo vệ cho ông H nên ông H tiếp tục với lời lẽ thô tục tuyên truyền ông tham ô tiền của dân. Cho đến khi Công an huyện B có thông báo số 07 ngày 05/3/2020 và UBND xã H tiếp tục làm cho dù thông báo trước là ông H nhầm. Tại thông báo số 07 ngày 05/3/2020 Công an huyện B có nội dung xác định ông không có tội song ông H vẫn tuyên truyền tại các cuộc họp dân cũng như lợi dụng mạng xã hội Facebook vu khống, mạt xát ông. Trên cương vị là Trưởng thôn, Trưởng kiểm soát HTX DVNN, đại biểu HĐND xã H khóa 18, 19, 20 ông và gia đình đã bị ông H sỉ nhục suốt 5 năm. Hành vi đó của ông H đã bị Công an huyện B, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính ngày 13/10/2022.

Nay, ông yêu cầu Toà án buộc ông Nguyễn Văn H bồi thường thiệt hại danh dự cho ông với số tiền là 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng). Trong đó: bồi thường danh dự là 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) và bồi thường thiệt hại là 10.000.000đ (Mười triệu đồng) bao gồm tiền công lao động 23 buổi đi lại cơ quan có thẩm quyền, tiền xăng xe, thuê xe. Buộc ông Nguyễn Văn H xin lỗi ông trước báo Cựu chiến binh Hà Nam cũng như trước nhân dân tại cuộc họp dân thôn Đội 3, xã H là 2 lần.

* Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:

Ngày 08/4/2017 tôi đề nghị chi bộ Đảng mời ông Q thanh quyết toán về phần thu không đúng với thực tế đã thu được tiền bằng đầu sào của nhân dân để xây dựng nhà văn hóa thôn. Ngày 26/6/2018 tôi gửi đơn tố giác tội phạm đến Thanh tra huyện B. Trong thời gian này ông Q thường xuyên lợi dụng chức vụ quyền hạn dùng loa của thôn thông báo nhiều lần nhiều ngày với nội dung xuyên tạc vu khống tôi và chi bộ Đảng là một lũ lợi ích nhóm, ăn cắp cùng đồng bọn (tôi có bản ghi âm) ngoài ra ông Q còn trực tiếp đe dọa thách đố tôi, đăng tải lên facebook rải truyền đơn với nội dung lăng mạ, kích động mua chuộc tạo phe nhóm, xúi giục một số phần tử đến nhà tôi đập phá, chửi bới, đe dọa tôi, 2 ngày 3 lần và một số người ủng hộ người tố giác cũng bị ảnh hưởng (việc này Công an xã và bí thư chi bộ biết và thu gom). Ngày 22 đến ngày 26/9/2018 tôi gửi đơn đến Công an huyện B (đính kèm thông báo số 716/TB-CAH ngày 02/10/2018). Ngày 24/12/2018 UBND xã H ra thông báo số 01/TB-UBND, ngày 12/4/2019 UBND xã H ra kết luận số 01/KL-UBND và đã chuyển hồ sơ cùng bản kết luận tới Công an huyện B và đã thông báo cho tôi bằng văn bản. Trong phần kết luận mục 4 trang 9 có ghi “Hành vi chiếm đoạt số tiền 31.111.000đ của tập thể thôn 7-8 của ông Trần Văn Q cần phải xử lý theo quy định của pháp luật. Còn số tiền lạm thu đầu sào nhà văn hóa là 63.083.000đ và số tiền thừa thu 30.000đ/sào/năm là 53.343.050đ cần phải được làm rõ”.

Trong thời gian này ông Q lợi dụng chức vụ Trưởng thôn và Trưởng kiểm soát HTX DVNN mượn các diễn đàn đưa nhiều thông tin sai sự thật rằng: Ban quản trị 5 năm không quyết toán rút ruột trong số 7 tỷ đồng thu chi của ban và thông tin chi bộ đảng với các phòng ban cấu kết với nhau và với tôi để vùi dập cấp dưới, ông đã đăng tải lên mạng Facebook và thông báo trên loa của thôn nhiều lần/ngày và nhiều ngày gây áp lực lớn và bức xúc cho tôi. Hơn thế nữa ông còn tuyên truyền, xúi giục một số người đi qua cửa nhà tôi là nói háy, chửi đổng và cũng rất nhiều lần ông gặp tôi đâu là nói háy, chửi đổng gây nhiều áp lực và bức xúc cho tôi.

Ngày 12/5/2019 là ngày bầu trưởng thôn mới khóa 2019- 2021 UBND xã H đã công bố đọc kết luận và loại ông Q ra khỏi nhân sự bầu. Sau đó UBND xã cũng đã đưa văn bản cho các ban ngành tổ chức, chính trị ở địa phương văn bản số 01/KL-UBND xã để công khai rộng rãi. Sau nhiều bức xúc ảnh hưởng về tinh thần và vật chất, tổn hại từ phía ông Q gây đến cho tôi vì tôi làm nghề cắt tóc là nghề phục vụ ảnh hưởng rất nhiều đến lượng khách, ảnh hưởng đến thu nhập phục vụ cuộc sống cho gia đình và lại bị một số phần tử hiểu lầm, đập phá cửa và tủ nhà tôi và gây hấn cho tôi. Chi bộ Đảng và các ban ngành tổ chức chính trị ở địa phương đã qua 4 tháng rồi vẫn chưa thấy Công an huyện B trả lời. Ngày 13/9/2019 ông Q đăng lên mạng xã hội với nick Tr có nội dung lăng mạ tôi, kích động một số phần tử xấu nhằm trả thù tôi. Vì vậy, ngày 13/9/2019 tôi đăng bài với nội dung: sắp đi họp huyện được chưa Q ơi, Pháp luật chậm quá 4 tháng rồi nhắc nhẹ, một thời lừa dân, hạ nhục đảng viên, bôi nhọ cán bộ, trâu lấm vẩy sằng. Chân dung Trần Văn Q kẻ tham ô tài sản của nhân dân sắp bị khởi tố và thêm 01 vi deo đọc + 01 ảnh phần cuối của kết luận số 01 ngày 12/4/2019. Tôi đăng lên Facebook về câu từ không sai với sự thật và có căn cứ vì chỉ muốn bảo vệ bản thân, gia đình và các tổ chức chính trị khác ở địa phương chứ không có ý làm nhục ông Q.

Ngày 5/3/2020 Công an huyện B ra thông báo số 07/ĐSKT-MT nhưng không có kết luận chi tiết vụ việc (tổng thu chi các khoản) trả cho tôi và ông Q. Ngày 26/8/2020 UBND xã H gửi công văn số 12/CV-UBND về việc xin báo cáo kết luận vụ việc giải quyết tố cáo. Ngày 24/9/2020 Công an huyện B phúc đáp số 1085/CAH về việc phúc đáp công văn số 12/CV-UBND ngày 26/8/2020 của UBND xã H. Ngày 7/11/2020 biên bản hội nghị triển khai thực hiện nội dung văn bản số 1085/CAH về việc phúc đáp công văn số 12/CV-UBND ngày 26/8/2020 của UBND xã H. Trong biên bản này tất cả đều có ý kiến kể cả ông Q là chưa có kết luận cuối cùng của Công an huyện B, đợi kết luận từ phía công an huyện B và ông Q có ý kiến trong biên bản ở trang 3/7 dòng 1,2,3 là không trả số tiền đó, nếu trả lại theo thông báo này thì thành có tội. Ngày 31/12/2020 ông Q đã tự nguyện mang đến UBND xã nộp lúc 16h30p.

Ngày 10-11/9/2020 số ra 1349 báo Cựu chiến binh Việt Nam (báo giấy và báo điện tử) cũng ra bài viết về địa phương phỏng vấn với Bí thư và các nguyên Bí thư chi bộ và Chủ tịch UBND xã. Như vậy, rõ ràng là ông Q đã thừa nhận và đã nộp lại số tiền bất hợp pháp là 31.111.000đ cho Chủ tịch UBND xã còn số tiền lạm thu là trên 63 triệu đồng và số tiền thừa là 53.343.050đ từ quỹ thôn theo kết luận số 01/KL-UBND xã ngày 12/4/2019 là chưa được làm rõ và trả lời kết luận từ phía công an huyện B. Cho đến giờ tôi vẫn tiếp tục làm đơn gửi các cấp công thêm đó nữa là ông Nguyễn Tri L nguyên bí thư chi bộ khóa 2013 – 2015 cũng có bản tường trình sự việc và cũng đã làm đơn gửi huyện B tố giác tội phạm về hành vi tham ô tài sản của số tiền 26.340.000đ ông L đã thu của dân và nộp cho ông Q có chữ ký ba bên. Ông Q đã tạo thông tin giả để chiếm đoạt số tiền trên. Hiện nay ông L đã làm đơn gửi UBND huyện và các cơ quan chức năng đã chuyển đơn ông L đến công an huyện B từ tháng 7/2022 đến giờ vẫn chưa được giải quyết.

Ngày 2/1/2022 ông Q vẫn tiếp tục đăng bài lên Facebook với lời lẽ lăng mạ và chia rẽ tình đoàn kết, tạo phe phái. Vì vậy ngày 23/1/2022 tôi đã chia sẻ lại bài đăng Facebook ngày 13/9/2019 như đã nêu ở trên. Tôi nhận thấy cả tôi và ông Q đều không nên làm như vậy. Nay, ông Q khởi kiện yêu cầu buộc tôi bồi thường danh dự là 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) và bồi thường thiệt hại là 10.000.000đ (Mười triệu đồng) bao gồm tiền công lao động 23 buổi đi lại cơ quan có thẩm quyền, tiền xăng xe, thuê xe. Buộc tôi xin lỗi ông Q trước báo Cựu chiến binh Hà Nam cũng như trước nhân dân tại cuộc họp dân thôn đội 3, xã H là 2 lần, tôi không nhất trí.

Sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, ngày 12/5/2023, Tòa án nhân dân huyện B nhận được Đơn phản tố với nội dung: Yêu cầu ông Trần Văn Q phải bồi thường danh dự cho ông số tiền 60 triệu đồng và yêu cầu ông Q xin lỗi công khai trên Facebook (nick Tr) xin lỗi cá nhân và tập thể đã bị ông Q xúc phạm danh dự, xuyên tạc vu khống trên các phương tiện mà ông Q đã có hành vi trước đó.

Tại phiên tòa ông Nguyễn Văn H vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày trên.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa những người làm chứng có quan điểm:

Đối với nội dung ông Q thông báo trên loa đài với nội dung xúc phạm đảng, xúc phạm ông H thì ông Ngô Hải Tr xác định: ông Q thông báo trên hệ thống truyền thanh của xóm 7+8 tiêu đề sau: “Tố cáo một số đảng viên ăn cắp cùng đồng bọn còn Ủy ban nhân dân xã chầy bửa công an huyện thì vô cảm với hành vi tham nhũng và ăn cắp. Thông báo ngày 7 + 8, ngày 10/5 – 20/5 và nhiều ngày nữa đến tháng 10/2018. Trong ngày ông Q thông báo nhiều lần, thậm chí công an xã xuống lập biên bản ông Q mới thôi không thông báo nữa”. Người làm chứng bà Ngô Thị G xác định: Ông Q chửi Đảng và đồng bọn ăn cắp nhiều ngày và nhiều lần trong ngày trên hệ thống đài truyền thanh của thôn, tôi đứng nghe chi tiết. Ông Q thông báo ông Đ bí thư chi bộ lợi dụng chức vụ quyền hạn tham ô xong lại không tham ô. Những người làm chứng khác ông Nguyễn Tri L, ông Nguyễn Hoàng T, ông Lã Văn Đ, ông Hà Văn Đ, bà Trần Thị Q, ông Nguyễn Văn Q, ông Lã Đức Th, ông Lã Trung T đều có quan điểm là biết trên loa đài thôn đội có nội dung ông Q xúc phạm đảng, đảng viên, đồng bọn (suy luận trong đó có ông H). Đối với việc ông Q, ông H đăng tải nội dung nói nhau trên Facebook như thế nào thì những người làm chứng không nắm rõ.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục có quan điểm: Về tố tụng, Tòa án nhân dân huyện Bình Lục thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền; quá trình giải quyết vụ án và xét xử tại phiên toà, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 26, 35, 39, 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 34, 584, 592 Bộ luật dân sự năm 2015; Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn Q, buộc ông Nguyễn Văn H phải bồi thường thiệt hại cho ông Q bù đắp tổn thất tinh thần ở mức 05 lần đến 06 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định là 1.800.000 đồng/tháng và bồi thường 06 ngày công lao động cày bừa là 233.000 đồng/ngày và tiền thuê xe, xăng xe đi lại.

2. Buộc ông Nguyễn Văn H phải gỡ bỏ bài đăng xúc phạm ông Trần Văn Q và công khai xin lỗi trên tài khoản Facebook cá nhân của ông Nguyễn Văn H.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn ông Trần Văn Q yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Văn H phải bồi thường thiệt hại do danh dự bị xâm phạm và xin lỗi công khai, vì vậy đây là quan hệ tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định tại khoản 6 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông Nguyễn Văn H có nơi cư trú tại thôn Đội 3, xã H, huyện B, tỉnh Hà Nam. Vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Xét nội dung tranh chấp: Từ năm 2017 ông H đã gửi đơn đến các cơ quan có thẩm quyền về việc tố cáo ông Trần Văn Q, trưởng thôn 7+8 (nay là thôn 3) xã H lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lòng tin của nhân dân cố tình không quyết toán và quyết toán thiếu trung thực các khoản đóng góp của nhân dân để xây dựng nhà văn hóa thôn. Đến ngày 05/3/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ban hành Thông báo số 07/ĐCSKT-MT về kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm có nội dung “...hành vi của Trần Văn Q không có dấu hiệu tội phạm căn cứ theo khoản 1 Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự”. Tuy nhiên, ngày 23/01/2022, bị đơn đã dùng tài khoản Facebook của mình có nick “Hoang Nguyen” tự ý đăng hình ảnh của ông Q và chia sẻ lại nội dung bị đơn đã đăng từ tháng 9 năm 2019 với nội dung:

“Sắp Đi họp huyện được chưa q oi pháp luật.chậm quá 4 tháng rồi nhắc nhẹ Một thời lừa dân, hạ nhục Đảng viên.bôi nhọ cán bộ, trâu lấm vẩy Sằng chân dung trần văn q kẻ phạm tội tham ô tài sản của ND sắp bị khởi tố” Sau đó ông Q đã có Đơn tố cáo hành vi trên của ông H đến Công an xã H, huyện B. Sự việc đã được Công an xã H tiến hành xác minh, lấy lời khai, lập biên bản vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn Văn H và Công an huyện B ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính vào ngày 13/10/2022 với số tiền phạt 7.500.000 đồng và biện pháp khắc phục hậu quả là buộc cải chính thông tin sai sự thật. Ông H cũng thừa nhận hành vi nêu trên và ngày 20/10/2022, ông H đã nộp tiền phạt nên đây là tình tiết, sự kiện có thật không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Theo khoản 5 Điều 34 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín, nhân phẩm thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại”. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ được chấp nhận.

Quá trình giải quyết vụ án, ông H có đơn đề nghị đưa 10 người làm chứng tuy nhiên qua Biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa thì những người làm chứng đều cho rằng ông Q đã thông báo trên loa truyền thanh của thôn nội dung ông Q xúc phạm đảng, đảng viên, đồng bọn (suy luận trong đó có ông H), cụ thể nội dung “Tố cáo một số đảng viên ăn cắp cùng đồng bọn còn Ủy ban nhân dân xã chầy bửa công an huyện thì vô cảm với hành vi tham nhũng và ăn cắp” (thông báo này được ông Ngô Hải Tr xác định là vào ngày 7 + 8, ngày 10/5 - 20/5 và nhiều ngày nữa đến tháng 10/2018); còn việc ông Q, ông H đăng tải nội dung nói nhau trên Facebook như thế nào thì không nắm rõ.

Ngoài ra, ông H cung cấp 01 USB và 01 thẻ nhớ và tại Biên bản giao nhận tài liệu chứng cứ xác định nội dung và niêm phong tài liệu chứng cứ ngày 10/5/2023 có sự tham gia của ông Trần Văn Q, ông Nguyễn Văn H, đại diện Tòa án nhân dân, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục thì chỉ có ông H xác định được nội dung ghi trong thẻ nhớ còn lại không ai xác định được nội dung gì, người nói là ai vì có nhiều tiếng ồn. Đồng thời, ông H giao nộp nhiều tài liệu, chứng cứ và cho rằng sẽ tiếp tục làm đơn gửi các cấp để làm rõ hành vi của ông Q và ông Q cũng đã xúc phạm ông. Hội đồng xét xử thấy những tài liệu chứng cứ và vấn đề ông H đưa ra không làm thay đổi đến việc đánh giá nội dung vụ án. Mặt khác, tại biên bản làm việc ngày 16/3/2023 giữa Tòa án với chính quyền xã H, huyện B thì địa phương cho biết: “…ông Trần Văn Q giữ chức vụ Trưởng thôn Đội 3 từ năm 2021 đến nay, trước đó từ năm 2011 đến tháng 10/2018 ông Q giữ chức vụ Trưởng thôn 7 + 8 xã H, trong quá trình ông Q giữ chức vụ trưởng thôn thì giữa ông Q và ông H có những xích mích và mâu thuẫn cá nhân. Ông H có hành vi đăng tải thông tin không đúng sự thật về ông Q để đăng lên Facebook và đã bị Công an nhắc nhở nhiều lần. Đến ngày 13/10/2022, Công an huyện B đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông H…Quá trình ông Q làm trưởng thôn Đội 3 ông Q chưa có sai phạm gì và cũng không lợi dụng chức vụ trưởng thôn để tuyên truyền bôi nhọ ông H đồng thời ông Q không bị cơ quan có thẩm quyền xử lý bất kỳ hành vi gì. Trong các buổi họp của thôn ông Q chủ trì nhưng cũng không có hành vi, lời nói xúc phạm đến ông H. Tuy nhiên tại nhiều các buổi họp thôn (khoảng gần 100 người dân) ông H cũng đã có những phát biểu có tính chất không thiện chí, có những câu nói gây xung đột đối với ông Q đặc biệt trong cuộc họp gần đây nhất là tiếp xúc cử tri ông H cũng đã gây sự với ông Q, vợ ông H phải kéo ông H về mới thôi”.

[2.2] Xét yêu cầu bồi thường danh dự: Ông Q cho rằng hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật, xuyên tạc vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của ông H đối với ông thời gian là hơn 05 năm vì vậy ông yêu cầu ông H phải bồi thường danh dự cho ông là 50 triệu đồng, ông cho rằng trong trường hợp việc yêu cầu bồi thường của ông với số tiền trên là cao không phù hợp với quy định của pháp luật thì ông đề nghị Tòa án xử lý đúng theo quy định của pháp luật và ông không cung cấp được tài liệu chứng cứ gì cho yêu cầu này.

Căn cứ Điều 592 Bộ luật dân sự và Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thưởng thiệt hại ngoài hợp đồng, Hội đồng xét xử thấy hành vi của ông H cung cấp, chia sẻ thông tin gây ảnh hưởng xấu, xúc phạm đến danh dự, uy tín của ông Q, ngoài việc ảnh hưởng đến đời sống cá nhân thì ông Q còn giữ chức vụ là Trưởng thôn Đội 3, xã H nên căn cứ vào hình thức xâm phạm, mức độ tổn thất về tinh thần cần buộc ông H bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần số tiền bằng 05 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định

(căn cứ Nghị định 24/2023/NĐ-CP ngày 14/5/2023 của Chính phủ quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang thì từ ngày 01/7/2023, mức lương cơ sở là 1.800.000 đồng/tháng), cụ thể 1.800.000 đồng x 05 tháng = 9.000.000 đồng) là phù hợp. Ngoài khoản tiền bồi thường trên, ông Q không xuất trình tài liệu, chứng cứ nào chứng minh cho yêu cầu bồi thường danh dự mà ông đề nghị là có căn cứ nên không được xem xét chấp nhận.

[2.3] Xét yêu cầu bồi thường thiệt hại 10 triệu đồng bao gồm tiền công đối với 23 buổi đi làm việc với mức 400.000 đồng/buổi, tiền thuê 01 chuyến xe là 300.000 đồng và tiền xăng xe cho các buổi làm việc là 500.000 đồng. Ông Q xuất trình 23 Biên bản làm việc là 23 buổi ông phải làm việc với các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến đơn tố cáo của ông H đối với ông trong thời gian từ ngày 22/7/2017 đến 05/3/2020. Trong thời gian này, ông Q xác định ngoài việc ông được hưởng phụ cấp các chức vụ gồm đại biểu Hội đồng nhân dân xã, Trưởng thôn, Trưởng ban kiểm soát HTX, thôn đội trưởng tính tổng trung bình mỗi ngày ông được hưởng là 175.000 đồng thì ông còn làm công việc cày bừa mỗi ngày được 233.000 đồng; tổng các khoản thu nhập là 408.000 đồng/ngày.

Hội đồng xét xử thấy, từ ngày 01/7/2017 đến nay hàng tháng ông Q đều được Ủy ban nhân dân xã H và HTX DVNN H chi trả các khoản phụ cấp gồm phụ cấp trưởng thôn, phụ cấp thôn đội trưởng dân quân tự vệ, phụ cấp đại biểu HDND xã và tiền công của Trưởng kiểm soát HTX DVNN H. Đối với 23 buổi để tính ngày công cày bữa, theo chính quyền địa phương cung cấp: ngoài những công việc trên ra thì ông Q còn làm cày bừa tại địa phương 02 vụ một năm, cụ thể thời gian làm thêm việc cày bừa là vụ mùa từ tháng 6 dương lịch đến đầu tháng 7 dương lịch kết thúc, vụ xuân có cày ải trong tháng 11 dương lịch, cày để cấy vụ xuân từ cuối tháng 01 đến đầu tháng 3 dương lịch.

Như vậy đối chiếu với 23 buổi làm việc mà ông Q cung cấp thì chỉ trùng thời gian là 06 buổi cày bừa. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận 06 buổi x 233.000đ/buổi = 1.398.000 đồng.

Đối với khoản tiền thuê 01 chuyến xe là 300.000 đồng và tiền xăng xe cho các buổi làm việc là 500.000 đồng, xét thấy phù hợp với thực tế nên được chấp nhận.

[2.4] Xét yêu cầu buộc ông Nguyễn Văn H xin lỗi trước báo Cựu chiến binh Hà Nam và trước nhân dân tại cuộc họp dân thôn Đội 3, xã H là 02 lần: Đối với bài viết đề ngày 11/9/2020 có tiêu đề “Tỉnh Hà Nam: Cựu Trưởng thôn bị tố chi tiêu phung phí tiền của dân đóng góp” do Cựu chiến binh Việt Nam phát hành nội dung viết về việc trước đây ông H đã có đơn thư phản ánh về việc quá trình làm trưởng thôn 7+8 cũ, xã H; ông Q có hành vi “Lợi dụng chức vụ quyền hạn, tham ô tài sản” đã được các cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên ông H không đồng ý với các kết quả giải quyết nên tiếp tục có đơn phản ánh đến các cơ quan báo chí. Ngoài việc chia sẻ đường link của bài báo nêu trên, ông H không viết bài, đăng tải hay chia sẻ thêm thông tin nào khác. Đối với yêu cầu xin lỗi trước nhân dân tại cuộc họp dân thôn Đội 3, xã H, ông Q không xuất trình được chứng cứ để chứng minh ông H đã có hành vi xúc phạm danh dự, uy tín của ông tại cuộc họp dân thôn Đội 3 đồng thời theo chính quyền địa phương cung cấp, thì tại nhiều các buổi họp thôn ông H có những phát biểu có tính chất không thiện chí, có những câu nói gây xung đột đối với ông Q; như vậy không có căn cứ xác định ông H có hành vi xúc phạm danh dự, uy tín của ông Q tại cuộc họp dân thôn Đội 3.

Vì vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của ông Q là buộc ông Nguyễn Văn H xin lỗi trước báo Cựu chiến binh Hà Nam và trước nhân dân tại cuộc họp dân thôn Đội 3, xã H là 02 lần. Tuy nhiên cần buộc ông H phải gỡ bỏ bài đăng xúc phạm ông Q và công khai xin lỗi trên tài khoản Facebook cá nhân của ông Nguyễn Văn H là phù hợp với quy định tại khoản 3, khoản 5 Điều 34 Bộ luật dân sự.

[3] Xét yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn H: Sau khi thụ lý vụ án, tại Đơn trình bày sự việc của ông đề nghị 22/02/2023 và tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 10/5/2023, ông thể hiện ông có yêu cầu phản tố nhưng không nêu nội dung, Tòa án nhân dân huyện B đã đề nghị ông nêu cụ thể nội dung yêu cầu phản tố thì ông không trình bày. Đến ngày 12/5/2023, ông có Đơn phản tố, nội dung “yêu cầu ông Trần Văn Q phải bồi thường danh dự cho ông số tiền 60 triệu đồng và yêu cầu ông Q xin lỗi công khai trên Facebook (nick Tr) xin lỗi cá nhân và tập thể đã bị ông Q xúc phạm danh dự, xuyên tạc vu khống trên các phương tiện mà ông Q đã có hành vi trước đó”. Căn cứ khoản 3 Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự quy định “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải” nên Tòa án nhân dân huyện Bình Lục không thụ lý đối với Đơn phản tố trên của ông trong vụ án này và ông có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Nguyễn Văn H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, cụ thể như sau: 11.198.000đ x 5% = 559.900 đồng làm tròn là 559.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; các Điều 34, 584, 585, 592 Bộ luật dân sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn Q: Buộc ông Nguyễn Văn H phải bồi thường thiệt hại cho ông Trần Văn Q số tiền 11.198.000đ (Mười một triệu một trăm chín mươi tám nghìn đồng).

Buộc ông Nguyễn Văn H phải gỡ bỏ bài đăng xúc phạm ông Q và công khai xin lỗi trên tài khoản Facebook cá nhân của ông Nguyễn Văn H.

Không chấp nhận các yêu cầu khác của ông Trần Văn Q.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn H phải chịu 559.000đ (Năm trăm lăm mươi chín nghìn đồng).

Ông Trần Văn Q, ông Nguyễn Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp Cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại do danh dự bị xâm phạm và xin lỗi công khai số 01/2023/DS-ST

Số hiệu:01/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Lục - Hà Nam
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về