Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe số 13/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN X, TỈNH LONG AN 

BẢN ÁN 13/2022/DS-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DANH DỰ, NHÂN PHẨM, UY TÍN, SỨC KHỎE

Ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện X xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 111/2021/TLST-DS, ngày 27/10/2021. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2021/QĐST-DS, ngày 31/12/2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Ông Trần Minh C, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1966. Cùng địa chỉ: Ấp 4, xã TT, huyện X, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Ông Lê Tấn B, sinh năm: 1957. Địa chỉ: Ấp 4, xã TT, huyện X, tỉnh Long An.

(Ông Trần Minh C, bà Nguyễn Thị Nh có mặt. Ông Lê Tấn B vắng mặt.)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Nh trong suốt quá trình giải quyết vụ án có nội dung như sau:

Trước đây, ông Lê Tấn B có mâu thuẫn đất đai với vợ chồng bà. Đến năm 2020, ông Lê Tấn B xúi giục bà Lê Thị C khởi kiện và là người làm chứng cho bà C trong vụ án tranh chấp ranh đất với vợ chồng bà. Ông Lê Tấn B khai không đúng sự thật và đã có hành vi xúc phạm danh dự của vợ chồng bà, cụ thể ông Lê Tấn B nói “Lần này cho vợ chồng bà dỡ nhà đi luôn”.

Sau khi vụ án kết thúc, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 58/2020/DS-ST ngày 12-8- 2020 của Tòa án nhân dân huyện X đã bác đơn khởi kiện của bà C. Ngày 12/4/2021, ông Lê Tấn B lại nói “Vợ chồng bà lấy đất của bà C”, “Thấy vợ chồng bà nghèo nên Tòa xử thắng kiện”. Như vậy, ông Lê Tấn B đã xúc phạm làm vợ chồng bà mắc cỡ với xóm giềng, khiến bà buồn rầu không ngủ được nên bị bệnh cao huyết áp. Bà có nhập viện điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện X ngày 06/12/2020. Sau đó, do dịch bệnh Covid nên bà đi khám, điều trị tại Bệnh viện Vạn An ở thị trấn BL ngày 07/12/2020 chi phí hết 370.000 đồng. Công việc của bà là đan đệm, làm chanh thu nhập khoảng 200.000 đồng/ngày còn ông C thì thu nhập làm hồ 400.000 đồng/ngày.

Hoàn cảnh kinh tế gia đình bà khó khăn. Khi bà bệnh thì vợ chồng bà phải nghỉ làm.

Khi bị ông Lê Tấn B xúc phạm, vợ chồng bà không báo chính quyền địa phương vì không muốn động chạm gì nhưng ông Lê Tấn B cứ liên tục xúc phạm. Nay vợ chồng bà làm đơn khởi kiện yêu cầu ông Lê Tấn B bồi thường danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe số tiền là 50.000.000 đồng. Đây là số tiền bà đưa ra để Tòa xem xét chứ bà không biết quy định của pháp luật là bao nhiêu.

* Nguyên đơn ông Trần Minh C thống nhất với ý kiến trình bày và yêu cầu khởi kiện của bà Nh. Ông không bổ sung gì thêm.

* Bị đơn ông Lê Tấn B đã được Tòa án tống đạt thông báo việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên hòa giải và kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ nhưng đều vắng mặt trong các buổi làm việc, không cung cấp bản tự khai hay có ý kiến phản hồi gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tòa án tiến hành thụ lý vụ án, hòa giải nhưng không được do ông Lê Tấn B vắng mặt.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện X:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được thực hiện theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung tranh chấp: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền:

Tranh chấp giữaông Trần Minh C, bà Nguyễn Thị Nh với ông Lê Tấn B là tranh chấp bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe được quy định tại Điều 590, 592 Bộ luật dân sự. Căn cứ nơi cư trú của bị đơn nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Long An được qui định tại khoản 6 Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Lê Tấn B vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để xét xử nên Tòa án giải quyết vắng mặtđương sự theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Xét yêu cầu bồi thường danh dự, nhân phẩm, uy tín của bàị Nh, ông C:

Bàị Nh, ông C cho rằng vào năm 2020 ông Lê Tấn B xúi giục bà C khởi kiện và làm chứng khai không đúng sự thật, nói “Vợ chồng bà lấy đất của bà C”,“Lần này cho vợ chồng bà dỡ nhà đi luôn” và “Thấy vợ chồng bà nghèo nên Tòa xử thắng kiện” nhưng khi Tòa án huyện X giải quyết thì phần thắng thuộc về vợ chồng bà nên ông Lê Tấn B đã khai gian dối và vu khống xúc phạm danh dự, nhân phẩm của vợ chồng bà.

Hội đồng xét xử nhận thấyviệc xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác là không đúng về mặt văn hóa, đạo đức, trái quy định pháp luật. Người nào vi phạm thì chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 592 Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, câu nói “Lần này cho vợ chồng bà dỡ nhà đi luôn” và “Thấy vợ chồng bà nghèo nên Tòa xử thắng kiện” không phải là lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của ông bà. Lời nói đó không chuẩn mực trong ứng xử, giao tiếp nhưng chưa đến mức làm cho danh dự, nhân phẩm, uy tín của bà Nh, ông C bị xâm phạm.

Bà Nh, ông C cho rằng ông Lê Tấn B xúi giục bà C khởi kiện, có lời lẽ như trên và nói “Vợ chồng bà lấy đất của bà C” đã xúc phạm làm vợ chồng bà mắc cỡ với xóm giềng nhưng lời trình bày này không có căn cứ,do ông bà là người thắng kiện trong vụ án tranh chấp ranh đất với bà C thì làm sao phải mắc cỡ với xóm làng. Đồng thời quyền khởi kiện và yêu cầu người làm chứng là quyền của công dân được pháp luật quy định và bảo vệ.

Ngoài ra, bà Nh và ông C không cung cấp được tài liệu hay người làm chứng, không báo chính quyền địa phương để được lập biên bản sự việc làm căn cứ khởi kiện mà chỉ là lời trình bày miệng. Tòa án đã mời ông Lê Tấn B nhiều lần nhưng ông vắng mặt và cũng không phản hồi nên không có cơ sở xác định ông Lê Tấn B đã nói những lời trên. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu bồi thường danh dự, nhân phẩm, uy tín của bàị Nh, ông C.

[2.2] Xét việc bà Nh yêu cầu bồi thường sức khỏe:

Bà Nh xác định ông Lê Tấn B không có hành vi bạo lực, xâm hại đến thân thể mà chỉ dùng lời nói xúc phạm làm ảnh hưởng đến sức khỏe của bà Nh. Xét thấy, bà Nh cho rằng ông Lê Tấn Bnói như vậy làm bà buồn rầu không ngủ được nên bị cao huyết áp. Nhận thấy bệnh cao huyết áp là một bệnh lý do nhiều nguyên nhân. Bà Nh không chứng minh được ông Lê Tấn B đã nói như trên và bà bị cao huyết áp là do bị ông Lê Tấn B xúc phạm. Hơn nữa, bà Nh xác định ông Lê Tấn B xúc phạm vợ chồng bà là vào ngày 12/4/2021 trong khi bà đi khám bệnh cao huyết áp là vào tháng 12/2020 nên không có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của ông Lê Tấn B và kết quả bệnh của bà Nh.

Từ các phân tích trên, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc ông Lê Tấn B bồi thường danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe với số tiền 50.000.000 đồng là không có căn cứ chấp nhận như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện X.

[2] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội các đương sự không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Áp dụng Điều 584, 590, 592 Bộ luật dân sự;

1/ Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Minh C, bà Nguyễn Thị Nh đối với ông Lê Tấn B về việc yêu cầu ông Lê Tấn Ba bồi thường 50.000.000 đồng tiền bồi thường danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe.

2/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

3/ Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

4/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án được quyền tự nguyện thi hành án, thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật Thi hành dân sự án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

453
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bồi thường thiệt hại danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe số 13/2022/DS-ST

Số hiệu:13/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hưng - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về