Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 41/2022/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 41/2022/LĐ-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI

Ngày 12 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số: 38/2021/TLST-LĐ ngày 20 tháng 4 năm 2021 về: “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 271/2022/QĐXX-ST ngày 14 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Kim N, sinh năm:1990 Địa chỉ: 26/6B Khu phố 1A, phường T, Quận H, Thành phố M (có đơn xin vắng mặt).

2. B đơn: Công ty Địa chỉ: 74/10 đường C, hường V, quận T, Thành phố M.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Lê Thị H, địa chỉ: đường P, hường T, quận B, Thành phố M (có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo Đơn khởi kiện đề ngày 29/3/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Đỗ Th Kim N trình bày:

Bà bắt đầu làm việc tại Công ty (gọi tắt là Công ty) kể từ ngày 16/5/2017, đến ngày 15/6/2018 thì bà và Công ty mới ký hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật. Ngày 26/02/2021, bà có đơn xin thôi việc tại công ty. Trong thời gian bà làm việc tại công ty kể từ ngày 16/5/2017 đến tháng 02/2021, mỗi tháng Công ty đều trích lại tiền bảo hiểm từ lương của bà theo quy định nhưng lại không nộp về cho cơ quan bảo hiểm. Bà có liên hệ cơ quan bảo hiểm xã hội quận Tân Bình và được cung cấp giấy xác nhận đang tham gia bảo hiểm xã hội từ tháng 7/2017, bà được biết hiện nay công ty đã đóng bảo hiểm cho nhân viên đến tháng 10/2018 trong đó có bà. Nay bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội và chốt sổ cho bà từ tháng 11/2018 đến tháng 02/2021 để bà được hưởng tiền bảo hiểm thất nghiệp đúng thời hạn.

- Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của b đơn bà Lê Th H trình bày: Công ty có ký hợp đồng lao động với bà Đỗ Thị Kim N và đang nợ tiền bảo hiểm xã hội của bà N từ tháng 11/2018 đến tháng 02/2021. Công ty đồng ý thanh toán số tiền còn nợ cho cơ quan bảo hiểm xã hội tuy nhiên do tình hình dịch bệnh Covid 19, công ty gặp nhiều khó khăn nên đề nghị nguyên đơn cho thời gian thanh toán, dự kiến là từ 9 đến 12 tháng. Đồng thời người đại diện theo ủy quyền của bị đơn đề nghị được vắng mặt trong toàn bộ quá trình tố tụng khi Tòa án giải quyết vụ án tranh chấp về bảo hiểm với bà Đỗ Thị Kim N.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình phát biểu: Về tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng, quan hệ pháp luật tranh chấp. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm như: Nguyên tắc xét xử, thành phần Hội đồng xét xử, sự có mặt của các thành viên Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa, sự có mặt của những người tham gia tố tụng tại phiên Tòa. Về nội dung: Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn đóng bảo hiểm xã hội để chốt sổ bảo hiểm cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Đỗ Thị Kim N có đơn khởi kiện Công ty có địa chỉ trụ sở tại: 74/10 Núi Thành, hường 13, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh được quy định tại khoản 1 Điều 32, khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa:

Nguyên đơn bà Đỗ Thị Kim N và bị đơn Công ty có người đại diện theo ủy quyền là bà Lê Thị Huệ có đơn xin vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[3] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn Công ty đóng tiền bảo hiểm xã hội và chốt sổ bảo hiểm cho nguyên đơn từ tháng 11/2018 đến tháng 02/2021 theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Bà Đỗ Thị Kim N và Công ty đã ký kết hợp đồng lao động và hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động từ tháng 3/2021. Do quan hệ lao động của bà Đỗ Thị Kim N và Công ty là hợp pháp và việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp là trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động theo quy định tại Điều 19, Điều 21, Điều 85 và Điều 86 Luật Bảo hiểm xã hội và khoản 4 Điều 3, Điều 43 và Điều 57 của Luật Việc làm năm 2013.

Theo công văn số 1116/BHXH ngày 21/6/2022 của Cơ quan Bảo hiểm xã hội quận Tân Bình xác định: Bà Đỗ Thị Kim N có quá trình tham gia bảo hiểm xã hội tại Công ty từ tháng 7/2017 đến hết tháng 02/2021, quá trình tham gia chưa được chốt sổ do Công ty còn nợ tiền bảo hiểm xã hội của bà Đỗ Thị Kim N từ tháng 11/2018 đến tháng 02/2021.

Thực tế, Công ty hàng tháng đều trích tiền lương của bà Đỗ Thị Kim N để đóng tiền bảo hiểm nhưng không nộp lại cho cơ quan bảo hiểm xã hội, không chốt sổ bảo hiểm cho nguyên đơn là vi phạm Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội và khoản 3 Điều 48 Bộ luật lao động năm 2019. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn nộp tiền bảo hiểm xã hội để chốt sổ bảo hiểm từ tháng 11/2018 đến tháng 02/2021, bị đơn cũng thừa nhận còn nợ tiền bảo hiểm xã hội đến tháng 02/2021, yêu cầu này cũng phù hợp với thông tin của cơ quan bảo hiểm xã hội quận Tân Bình cung cấp. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Kim N là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 12, Điều 15 và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Nguyên đơn được miễn nộp tạm ứng án phí lao động sơ thẩm, bị đơn phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 300.000đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 32, khoản 1 Điều 35, Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 48 Bộ luật lao động năm 2019; Điều 19, Điều 21, Điều 85 và Điều 86 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; khoản 4 Điều 3, Điều 43 và Điều 57 của Luật Việc làm năm 2013, Điều 12, Điều 15 và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; Luật Thi hành án dân sự.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đỗ Thị Kim N: Buộc Công ty có trách nhiệm đóng tiền bảo hiểm xã hội để chốt sổ bảo hiểm cho bà Đỗ Thị Kim N từ tháng 11/2018 đến tháng 02/2021 theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí sơ thẩm: Công ty chịu án phí lao động sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng.

3. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Bà Đỗ Thị Kim N, Công ty vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 41/2022/LĐ-ST

Số hiệu:41/2022/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về