TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 40/2022/LĐ-ST NGÀY 09/08/2022 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI
Ngày 09 tháng 08 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số:
10/2022/TLST-LĐ ngày 19 tháng 4 năm 2022 về ‘‘Tranh chấp về bảo hiểm xã hội’’ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 179/2022/QĐXXST-LĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 137/2022/QĐST-DS ngày 24 tháng 6 năm 2022; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 219/2022/QĐXXST-LĐ ngày 27 tháng 6 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 161/2022/QĐST-DS ngày 15 tháng 7 năm 2022 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 164/2022/QĐXXST-LĐ ngày 18 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Trần Xuân H – sinh năm 1990 (có mặt) Địa chỉ: 406/51 đường C, Phường M, quân T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Tư vấn Thiết kế Kiến trúc Xây dựng P Trụ sở: 254 đường X, Phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đào Minh C – sinh năm 1977; Chức danh: Giám đốc.
Ông Đào Minh C vắng mặt lần thứ 2.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại Đơn khởi kiện ngày 24/01/2022; Đơn sửa đổi, bổ sung nội dung khởi kiện ngày 17/03/2022 và trong quá trình tham gia tố tụng Nguyên đơn – ông Trần Xuân H trình bày: Sau 1 tháng thử việc, ngày 01/6/2018 ông có ký hợp đồng lao động thời hạn 1 năm với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Tư vấn Thiết kế Kiến trúc Xây dựng P (sau đây gọi là Công ty). Sau khi hết hợp đồng hai bên không ký tiếp hợp đồng mới, nhưng ông vẫn tiếp tục làm việc tại Công ty cho đến tháng 6/2020. Lương năm 2018 là 4.300.000đ/tháng; Năm 2019 là 4.500.000đ/tháng và năm 2020 là 5.000.000đ/tháng. Thời gian làm việc, Công ty chưa đóng bảo hiểm xã hội cho ông từ tháng 3-6/2020 nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án: Buộc Công ty phải đóng bảo hiểm xã hội cho ông từ tháng 3/2020 đến hết tháng 6/2020, mức lương đóng BHXH là 5.000.000đ (Năm triệu đồng) và buộc Công ty thực hiện chốt, trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành thủ tục tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập cho ông Đào Minh C là người đại diện theo pháp luật của Công ty để tự khai; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông Đào Minh C đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến và không tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự được.
Tại phiên tòa, Người đại diện theo pháp luật của Công ty – ông Đào Minh C vắng mặt.
Nguyên đơn – ông Trần Xuân H trình bày: Sau khi nghỉ việc ở Công ty ông đã xin được việc làm tại Công ty mới nhưng không thực hiện được việc đóng bảo hiểm xã hội do Công ty chưa chốt sổ bảo hiểm xã hội. Theo xác nhận của Cơ quan bảo hiểm xã hội thì Công ty đã hoàn tất việc đóng bảo hiểm xã hội cho ông đến tháng 3/2020 nên ông chỉ yêu cầu Công ty chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông đến hết tháng 3/2020. Ông đã nhận lại sổ bảo hiểm xã hội nên ông xin rút lại yêu cầu này và rút lại yêu cầu Công ty phải đóng bảo hiểm xã hội cho ông từ tháng 3/2020 đến hết tháng 6/2020.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình phát biểu:
- Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã làm đúng quy định của pháp luật, xét xử đúng hạn luật định. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của pháp luật, người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.
- Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa. Đề nghị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên xử chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện ‘‘Tranh chấp về bảo hiểm xã hội’’ do Bị đơn có trụ sở tại quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ Điều 32; điểm c Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì thẩm quyền giải quyết yêu cầu của Nguyên đơn thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về việc tham gia phiên tòa của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình: Trong vụ án này, Tòa án có thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình tham gia phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[3] Về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa: Nguyên đơn – ông Trần Xuân H có mặt; Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt Bị đơn theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[4] Xét yêu cầu Công ty phải chốt sổ bảo hiểm xã hội của ông H đến hết tháng 3/2020.
Căn cứ Hợp đồng lao động số 03-2018/HĐLĐ ngày 01/6/2018 gữa ông H và Công ty, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ xác định ông H làm việc tại Công ty từ tháng 6/2018 đến hết tháng 3/2020.
Căn cứ Công văn số: 938/BHXH ngày 24/5/2022 của Bảo hiểm xã hội quận Tân Bình về việc xác nhận tình trạng đóng BHXH thể hiện ông H tham gia bảo hiểm xã hội tại Công ty từ tháng 6/2018 đến hết tháng 3/2020. Công ty đã hoàn tất nợ BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ-BNN đến tháng 3/2020.
Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở xác định quan hệ lao động giữa ông H và Công ty là hợp pháp. Ông H và Công ty đã thực hiện đóng bảo hiểm bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp (sau đây gọi tắt là bảo hiểm xã hội) theo đúng quy định tại Điều 19, Điều 21, Điều 85 và Điều 86 Luật Bảo hiểm xã hội. Việc Công ty không chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông H là vi phạm Điều 21 Luật bảo hiểm xã hội và khoản 3 Điều 48 Bộ luật lao động năm 2019. Do dó, ông H yêu cầu Công ty phải chốt sổ bảo hiểm xã hội đến hết tháng 3/2020 là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông H và buộc Công ty phải chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông H đến hết tháng 3/2020.
[5] Đối với việc rút lại yêu cầu Công ty phải trả lại sổ bảo hiểm xã hội và đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 3/2020 đến hết tháng 6/2020 của ông H.
Xét thấy: Việc rút yêu cầu của ông H là hoàn toàn tự nguyện, căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết các yêu cầu này của ông H. Ông H không phải chịu án phí đối với yêu cầu đã đình chỉ.
[6] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ông H không phải chịu án phí Lao động sơ thẩm, Công ty phải chịu 300.000đ án phí Lao động sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điều 21; Điều 32; điểm c Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm c Khoản 1 Điều 217; Điều 227; Điều 228; Khoản 1 Điều 273; Khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào Điều 19, Điều 21, Điều 85 và Điều 86 Luật Bảo hiểm xã hội;
- Căn cứ vào Khoản 3 Điều 48 Bộ luật lao động năm 2019;
- Căn cứ vào Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014);
- Căn cứ vào Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn – ông Trần Xuân H.
1.1 Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Tư vấn Thiết kế Kiến trúc Xây dựng P có trách nhiệm chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông Trần Xuân H đến hết tháng 3/2020.
1.2 Đình chỉ yêu cầu Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Tư vấn Thiết kế Kiến trúc Xây dựng P phải trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông Trần Xuân H.
1.3 Đình chỉ yêu cầu Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Tư vấn Thiết kế Kiến trúc Xây dựng P phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp cho ông Trần Xuân H từ tháng 3/2020 đến hết tháng 6/2020.
2/ Đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự.
3/ Về địa điểm thi hành án: Thi hành tại Chi cục Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.
4/ Về án phí: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Tư vấn Thiết kế Kiến trúc Xây dựng P phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Lao động sơ thẩm.
5/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
6/ Về quyền kháng cáo: Ông Trần Xuân H có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Tư vấn Thiết kế Kiến trúc Xây dựng P có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án hợp lệ.
7/ Về quyền kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự./
Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 40/2022/LĐ-ST
Số hiệu: | 40/2022/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 09/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về