TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 295/2023/LĐ-PT NGÀY 15/03/2023 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI
Trong ngày 15-3-2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh số A N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 69/2022/TLPT-LĐ ngày 22 tháng 11 năm 2022 về việc: “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội”.
Do bản án lao động sơ thẩm số 17/2022/LĐ-ST ngày 08/09/2022 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2023/QĐPT-LĐ ngày 27/02/2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Thanh S, sinh năm: 1972;
Địa chỉ: Ấp Đ, xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Vũ Xuân Đ, sinh năm: 1963; địa chỉ: số B đường T, khu phố C, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (Theo Giấy ủy quyền số công chứng 009912, quyển số 12TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/12/2019).
- Bị đơn: Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi Trụ sở: Ấp P, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Lê Thị V, sinh năm: 1988; địa chỉ: Số A Đ, phường C, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Theo Giấy ủy quyền số 03/UQ-ĐĐCC ngày 14/01/2020).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Phan Đức L - Luật sư Công ty L3 thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh Địa chỉ: Khu phố 2, thị trấn Củ Chi, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đào Anh K; chức vụ: Giám đốc.
- Người kháng cáo: Ông Huỳnh Thanh S là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện nộp ngày 13/12/2019, các biên bản hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Ông Huỳnh Thanh S, có người đại diện theo ủy quyền là ông Vũ Xuân Đ trình bày:
Từ năm 2003 nguyên đơn làm hợp đồng cho lâm viên Cần Giờ xã L, huyện C, sau chuyển sang Công ty D với nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên rừng tại Tiểu khu A rừng phòng hộ C hưởng lương ngân sách theo hệ số ngạch bậc do nhà nước quy định. Sau nhiều năm làm việc hệ số lương của nguyên đơn được hưởng với hệ số 4,2 nhân với mức lương cơ bản do nhà nước quy định.
Ngày 24/9/2012, theo công văn của Ủy ban nhân dân Thành phố H giao Tiểu khu A Rừng phòng hộ C cho Bộ Tư lệnh thành phố quản lý. Ông K1 được Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi quản lý, với mức lương nhân viên bảo vệ được hưởng hệ số đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế 4,20, phụ cấp khu vực 0,1, phụ cấp công việc 0,4 với mức lương cơ sở từ tháng 5/2012 đến tháng 6/2013 là 1.050.000đ (Một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng)/tháng, từ tháng 7/2013 đến tháng 4/2016 là 1.150.000đ (Một triệu một trăm năm mươi nghìn đồng)/tháng, từ tháng 5/2016 đến tháng 6/2017 là 1.210.000đ (Một triệu hai trăm mười nghìn đồng)/tháng, từ tháng 7/2017 đến tháng 6/2018 là 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng)/tháng, từ tháng 7/2018 đến tháng 6/2019 là 1.390.000đ (Một triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng)/tháng, từ tháng 7/2019 đến nay với mức lương cơ sở là 1.490.000đ (Một triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng)/tháng.
Năm 2013, ông S được chuyển về làm việc tại Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ C và ký lại hợp đồng lao động số 06/HĐLĐ-ĐĐCC-2013 ngày 01/01/2013 với mức lương 4,20, phụ cấp khu vực 0,1, phụ cấp lội rừng 0,4.
Ông S phải làm việc 10 giờ một ngày mà không được hưởng lương thời gian làm thêm giờ, thời gian trực, môi trường làm việc khó khăn tại Khu R C, nhưng ông vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ để bảo vệ tài nguyên rừng, trật tự an ninh khu vực trong suốt hàng chục năm qua. Ngày 10/10/2019 công ty ký phụ lục hợp đồng số: 04/PLHĐ-ĐĐCC điều chỉnh hệ số lương của ông xuống còn 3,48, ép ông phải ký và được áp dụng từ năm 2013.
Theo Công văn số 252/CV-BHXH ngày 25/5/2017 về việc rà soát và bàn giao sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, ông L1 mới phát hiện ra quá trình đóng bảo hiểm xã hội của ông không đúng với mức lương ký hợp đồng lao động.
Thực tế khi xem xét quá trình đóng, bị đơn chỉ đóng từ tháng 01/2013 đến tháng 10/2019 với hệ số 4,20 và không cộng hệ số vượt khung, trong khi hợp đồng lao động của ông hệ số là 4,20, chênh lệch với hệ số cũ giảm 0,72. Ông S đã khiếu nại lên Ban Giám đốc Công ty, Liên đoàn Lao động huyện C nhưng vẫn không nhận được trả lời thỏa đáng và luôn ép ông S phải chấp nhận điều chỉnh hệ số lương với mức thấp hơn mức đã ký hợp đồng, cụ thể chỉ chấp nhận cho ông ở mức kịch khung theo thang bảng lương bảo vệ là 3,48 mà không tính mức chênh lệch theo hệ số cũ là 0,72 cho đủ hệ số 4,20 theo hợp đồng đã ký với ông, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông.
Tại đơn khởi kiện nguyên đơn ông S yêu cầu:
- Buộc Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi đóng bổ sung bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho ông từ ngày 01/01/2013 đến nay theo hợp đồng lao động đã ký kết với mức hệ số 4,20 nhân mức lương cơ sở từng thời kỳ chứ không phải hệ số 3,48 nhân mức lương cơ sở từng thời kỳ như bị đơn đã đóng từ năm 2013, cụ thể phải đóng bổ sung phần chênh lệch so với hệ số cũ là 0,72;
- Buộc Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi trả cho ông mức lương chênh lệch do tính lương không đúng từ năm 2013 đến nay, cụ thể số tiền trả lương thiếu so với hệ số cũ sau khi đã trừ đi phần đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là 65.032.848 đồng;
- Buộc Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi phải thực hiện đúng thời gian lao động theo quy định của Luật Lao động, phải tính thời gian làm thêm giờ và chế độ trực đêm theo quy định pháp luật.
Tuy nhiên, tại buổi hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu trả cho ông mức lương chênh lệch do tính lương không đúng từ năm 2013 đến nay và yêu cầu thực hiện đúng thời gian lao động theo quy định của Luật Lao động và tính thời gian làm thêm và chế đô trực đêm theo quy định pháp luật. Nguyên đơn xác định chỉ yêu cầu bị đơn đóng bổ sung bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho ông từ ngày 01/01/2013 đến nay theo hợp đồng lao động đã ký kết với mức hệ số 4,20 nhân mức lương cơ sở từng thời kỳ chứ không phải hệ số 3,48 nhân mức lương cơ sở từng thời kỳ như bị đơn đã đóng từ năm 2013, cụ thể phải đóng bổ sung phần chênh lệch so với hệ số cũ là 0,72.
Tại bản tự khai ngày 14/02/2020, các biên bản hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Lê Thị V trình bày:
Ngày 19/9/2012, Ủy ban nhân dân thành phố H ban hành Quyết định số: 4852/QĐ-UBND về việc tổ chức lại Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi trực thuộc Bộ chỉ huy quân sự Thành phố trở thành “Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi” trực thuộc Bộ tư lệnh Thành phố và Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi là đơn vị sự nghiệp công lập có thu, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước để hoạt động theo quy định của Nhà nước.
Ngày 06/11/2012, Bộ Tư lệnh thành phố H ban hành Quyết định số: 1466/QĐ-BTL về việc giao Tiểu khu A rừng phòng hộ C cho Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi làm chủ đầu tư để thực hiện dự án tái hiện, tôn tạo Di tích lịch sử Chiến khu R. Theo Quyết định thì “Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi sẽ phối hợp Tổng Công ty D1 Một thành viên tiếp tục khai thác phục vụ khách quan du lịch theo hướng tạm thời giữ nguyên canh, nguyên cư đối với hoạt động tại khu vực Công viên L C như hiện nay đến ngày 30/4/2015 và Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi chịu trách nhiệm đề xuất nhân sự, tổ chức biên chế...” Thực hiện quyết định, ông Huỳnh Thanh S có trong danh sách điều chuyển nhân sự. Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi (gọi tắt là Địa đạo C) và ông S đã ký kết các hợp đồng lao động đều có mức lương với hệ số 4.2 theo Hợp đồng lao động cũ.
Ngày 18/6/2015, Ủy ban nhân dân thành phố H ban hành Quyết định số 2978/QĐ-UBND về việc điều chuyển toàn bộ Tiểu khu 17 rừng phòng hộ C thuộc địa bàn xã L, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh từ Tổng Công ty D1 tiếp nhận quản lý. Ngày 06/7/2015, Bộ Tư lệnh thành phố H ra Quyết định số 1291/QĐ-BTL về việc giao nhiệm vụ Khu Di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi tiếp nhận quản lý Tiểu khu A rừng phòng hộ C, xã L, huyện C.
Ngày 01/3/2019, Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi ban hành Quy chế số 01/QCL-ĐĐCC về việc trả lương của Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi theo Quy chế thì khung, bậc lương của cán bộ, công nhân viên làm việc tại Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi sẽ áp dụng theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
Ngày 25/4/2019, Bảo hiểm xã hội huyện C có Công văn số 338/CV-BHXH về việc hướng dẫn mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động tại Địa đạo Củ Chi. Nội dung của Công văn: “Khu Di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi là đơn vị sự nghiệp có thu, vì vậy cán bộ, công chức, viên chức, người ký hợp đồng làm việc với đơn vị thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định (tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ) thì tiền lương tháng đóng BHXH, BHYT, BHTN là tiền lương theo ngạch, bậc và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên nghề. Tiền lương này tính trên mức lương cơ sở”.
Ngày 13/6/2019, Địa đạo Củ Chi tiến hành làm việc với nhân viên bảo vệ rừng Tiểu khu A tích lịch sử Chiến khu Rừng Sác (C) về việc điều chỉnh hệ số lương theo Nghị định số 204/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ và có lập biên bản. Nội dung biên bản làm việc thể hiện nội dung là: Thông qua dự thảo Quy chế trả lương, thưởng cho CBCNV Tiểu khu A và Tiểu khu B và điều chỉnh hệ số lương của nhân viên bảo vệ rừng tại Tiểu khu A theo yêu cầu của Cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện C, đảm bảo theo đúng Nghị định số 204/2004/ND-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Ông L1 có tham dự và có ý kiến đề nghị điều chỉnh điều chỉnh hệ số lương của bản thân ông theo bảng 2 loại A của Nghị định 204/2004/NĐ-CP và biên bản làm việc ngày 07/4/2019.
Ngày 16/6/2019, Địa đạo Củ Chi ban hành Quy chế số 02/QCL-ĐĐCC về việc trả lương, thưởng đối với nhân viên giữ rừng Tiểu khu B và Tiểu khu A. Theo Quy chế thì Địa đạo Củ Chi căn cứ theo hệ số lương quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP của Chính phủ để trả lương cho nhân viên làm việc tại Địa đạo Củ Chi và tiến hành điều chỉnh hệ số lương cho ông S theo quy định của Nghị định 204/2004/NĐ-CP, đóng BHXH, BHYT, BHTN đúng theo quy định của pháp luật.
Ngày 12/8/2019, Địa đạo Củ C tiến hành họp thanh toán tiền chênh lệch bảo hiểm xã hội sau khi điều chỉnh hệ số lương thì ông S không đồng ý. Ngày 27/8/2019, Địa đạo Củ C tiếp tục làm việc với ông S để thoả thuận thống nhất về việc sẽ điều chỉnh hệ số lương và ông S đã ký biên bản đồng ý với việc điều chỉnh hệ số lương của ông theo đúng với quy định của Nhà nước.
Ngày 29/8/2019, ông S đã đối chiếu quá trình đóng bảo hiểm xã hội và ký xác nhận. Ngày 10/10/2019, Địa đạo Củ Chi ban hành Thông báo số 23/TB- ĐĐCC về việc điều chỉnh hệ số lương, trong đó có điều chỉnh hệ số lương của ông S. Thông báo đã được chuyển đến Tổ bảo vệ rừng Tiểu khu A và ông S. Địa đạo C đã tiến hành niêm yết công khai Thông báo trên tại Văn phòng Tổ bảo vệ rừng Tiểu khu A.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Địa đạo Củ Chi không đồng ý với tất cả yêu cầu khởi kiện, cụ thể như sau:
Về yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn buộc Địa đạo Củ Chi phải điều chỉnh hệ số lương từ 3,48 lên 4,2 như thoả thuận tại các Hợp đồng đã ký kết và đóng bổ sung bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo hệ số 4,2 thì Địa đạo Củ Chi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện vì những lý do sau:
Trước khi, ông Huỳnh Thanh S chuyển về làm việc tại Địa đạo C thì ông Huỳnh Thanh S là nhân viên của Đội bảo vệ rừng, Công ty D trực thuộc Tổng Công ty D1 Một thành viên. Công ty D là doanh nghiệp Nhà nước, sử dụng bảng lương, ngạch lương và hệ số lương theo Nghị định số 205/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004, hệ số lương trả cho ông L1 là 4,2. Từ ngày 01/01/2013, ông Huỳnh Thanh S chuyển qua Địa đạo Củ Chi làm việc theo Quyết định số 1466/QĐ-BTL ngày 06/11/2012 của Bộ Tư lệnh thành phố H và Quyết định số: 2978/QĐ-UBND ngày 18/6/2015 Ủy ban nhân dân Thành phố H. Địa đạo Củ C ký hợp đồng lao động và thỏa thuận hệ số lương với ông Huỳnh Thanh S là 4,2. Tuy nhiên, do Địa đạo Củ C là đơn vị sự nghiệp công lập có thu nên phải áp dụng Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính Phủ để chi trả lương cho nhân viên bảo vệ rừng Tiểu khu A là đảm bảo đúng quy định của Nhà nước. Việc Địa đạo Củ C ký kết Hợp đồng lao động và trả lương cho ông Huỳnh Thanh S với hệ số lương là 4,2 (giữ mức lương do Công ty D trả) theo quy định tại Nghị định số 205/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 quy định hệ thống thang lương, bảng lương và chế độ phụ cấp lương trong các Công ty Nhà nước là không đúng quy định nên Địa đạo Củ C điều chỉnh lại hệ số lương của ông K1 theo đúng quy định của Nghị định 204/NĐ-CP của Chính phủ.
Việc Địa đạo Củ C điều chỉnh hệ số lương của ông Huỳnh Thanh S là căn cứ theo quy định tại Khoản 5 Mục II Thông tư số 79/2005/TT-BNV ngày 10/8/2005 hướng dẫn chuyển, xếp lương đối với cán bộ, công chức, viên chức khi thay đổi công việc và các trường hợp được chuyển công tác từ lực lượng vũ trang, cơ yếu và công ty N vào làm việc trong các cơ quan Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước thì: “Cán bộ chuyên trách và công chức ở xã, phường, thị trấn (cấp xã), các đối tượng thuộc lực lượng vũ trang, cơ yếu và Công ty N được chuyển công tác vào làm việc trong cơ quan Nhà nước và đơn vị sự nghiệp của Nhà nước thì được bổ nhiệm và xếp lương vào ngạch công chức, viên chức phù hợp với vị trí và chuyên môn, nghiệp vụ của công việc mới được đảm nhiệm. Chế độ tập sự hoặc thử việc khi chuyển công tác thực hiện theo quy định của pháp luật, thời gian tập sự hoặc thử việc (nếu có) này được tính vào thời gian để xét nâng bậc lương ở ngạch công chức, viên chức được bổ nhiệm khi chuyển công tác”.
Địa đạo C điều chỉnh hệ số lương từ 4,2 thành 3,48 và điều chỉnh mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đã được Bảo hiểm xã hội huyện C xác nhận là đúng. Cụ thể, ngày 25/9/2019, Địa đạo Củ Chi có Văn bản số 179/ĐĐCC-TCHC về việc xác nhận quá trình điều chỉnh hệ số lương làm cơ sở đóng Bảo hiểm xã hội cho Người lao động gửi Bảo hiểm xã hội huyện C đã được Lãnh đạo Bảo hiểm xã hội C ký xác nhận đơn vị thực hiện đúng quy định trong việc điều chỉnh hệ số lương và mức đóng Bảo hiểm cho ông Huỳnh Thanh S. Ngoài ra, ông Huỳnh Thanh S còn có đơn gửi đến Liên đoàn lao động huyện C đề nghị giải quyết đối với nội dung này. Ngày 23/10/2019, Liên đoàn lao động huyện C đã mời các bên đến để hòa giải, giải quyết thắc mắc (tham dự buổi làm việc có đại diện Bảo hiểm xã hội huyện C, Phòng lao động - Thương binh - Xã hội huyện C) qua nắm bắt tình hình, ý kiến của các bên Liên đoàn lao động huyện C đã kết luận Địa đạo Củ Chi điều chỉnh hệ số lương của ông Huỳnh Thanh S là đúng quy định tại Nghị định 204-2004/NĐ-CP của Chính phủ.
Vì vậy, việc điều chỉnh hệ số lương từ 4,2 thành 3,48 và điều chỉnh mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp của Địa đạo Củ Chi đối với ông Huỳnh Thanh S là đúng quy định tại Nghị định 204/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/12/2004 và Thông tư số 79/2005/TT-BNV ngày 10/8/2005 của Bộ N1.
Địa đạo Củ C tiến hành điều chỉnh hệ số lương, mức lương đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đều thông báo cho ông Huỳnh Thanh S biết. Tại cuộc họp ngày 27/8/2019, Địa đạo Củ C đã làm việc với ông Huỳnh Thanh S và ông Huỳnh Thanh S đã ký xác nhận đồng ý điều chỉnh hệ số lương. Ngày 10/10/2019, Địa đạo Củ Chi ban hành Thông báo số 23/TB-ĐĐCC về việc điều chỉnh hệ số lương đã thông báo đến ông Huỳnh Thanh S và tiến hành niêm yết công khai theo quy định. Ngoài ra, Địa đạo Củ C và ông T1 đã ký Phụ lục hợp đồng lao động về việc điều chỉnh lại hệ số lương từ 4,2 thành 3,48 cho phù hợp với quy định của pháp luật, ông Huỳnh Thanh S đã đồng ý ký kết.
Đối với yêu cầu buộc Địa đạo Củ C phải trả mức lương chênh lệch do tính lương không đúng cho ông Huỳnh Thanh S từ 2013 đến nay theo quy định của pháp luật, cụ thể số tiền trả lương thiếu so với hệ số cũ sau khi đã trừ đi phần đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp còn lại là 65.032.848 đồng. Địa đạo Củ C không đồng ý với yêu cầu khởi kiện vì những lý do sau:
Việc Địa đạo Củ Chi điều chỉnh hệ số lương, mức lương đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là đúng với quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP của Chính phủ và chỉ điều chỉnh hệ số lương, mức lương đóng bảo hiểm từ ngày 01/01/2013 đến nay. Tuy nhiên, trên thực tế từ ngày 01/01/2013 đến ngày 30/6/2019 Địa đạo Củ C đã trả lương cho ông Huỳnh Thanh S theo hệ số 4.2 và không truy thu phần tiền dư đã chi trả. Kể từ ngày 01/7/2019 đến nay, Địa đạo Củ Chi mới tiến hành trả lương thực tế đúng với hộ số 3,48 nên ông Huỳnh Thanh S yêu cầu trả số tiền lương chênh lệch là 65.032.848 đồng là không có cơ sở. (Tổng thu nhập hàng tháng của ông T1 vẫn không thay đổi sau khi điều chỉnh hệ số lương).
Ngoài ra, Địa đạo Củ Chi đã tiến hành trả lại số tiền 6.504.409 đồng, là tiền dư do đóng bảo hiểm xã hội khi điều chỉnh hệ số lương từ 4,2 chuyển thành 3,48 cho ông Huỳnh Thanh S nhưng ông không nhận nên Địa đạo Củ C đang tạm giữ, và Địa đạo đồng ý trả lại cho ông Huỳnh Thanh S.
Đối với yêu cầu buộc Địa đạo Củ C phải thực hiện đúng thời gian lao động theo quy định của luật lao động và phải tính thời gian làm thêm giờ và chế độ trục theo quy định, Địa đạo Củ Chi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện, cụ thể như sau:
Theo Hợp đồng lao động đã ký kết với ông Huỳnh Thanh S thì thời gian làm việc từ 07 giờ đến 17 giờ. Tuy nhiên, theo quy định tại Mục 7.1 Điều 7 Nội quy hoạt động của Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi thì “Giờ làm việc trong ngày: 8 giờ, bắt đầu từ 7h30’ đến 17h00, giờ nghỉ trưa do bộ phận sắp xếp.” Thời gian làm việc và nghỉ ngơi theo Thoả ước lao động tập thể năm 2018-2019 ngày 11/4/2018 quy định tại Điều 7 là áp dụng theo Quy định số 02/QĐ- ĐĐCC ngày 09/4/2017 về thời gian làm việc và chế độ trực, nghỉ phép đối với cán bộ công nhân viên.
Theo quy định tại Mục 2, Phần I quy định số 02/QĐ-ĐĐCC ngày 09/4/2017 quy định về thời gian làm việc và chế độ trực, nghỉ phép đối với CBCNV thì cán bộ công nhân viên ở các bộ phận, đội “Có mặt tại cơ quan lúc 07h00 và bắt đầu làm việc lúc 08h00 cho đến 17h00. Lưu ý: Tùy thuộc vào tình hình thực tế, cán bộ phụ trách các bộ phận tổ chức sắp xếp cho cán bộ công nhân viên thuộc quyền luân phiên nghỉ ngơi tại bộ phận đảm bảo thời gian làm việc 08 giờ/ngày....” Theo quy định trên thì cán bộ, công nhân viên tại Địa đạo Củ Chi làm việc không quá 08 giờ/ngày. Nội dung của Hợp đồng lao động ghi thời gian làm việc từ 07 giờ đến 17 giờ bao gồm thời gian ông Huỳnh Thanh S có mặt ở vị trí làm việc, thời gian nghỉ trưa và thời gian làm việc đảm bảo là 08 giờ/ngày. Vì vậy, ông Huỳnh Thanh S yêu cầu Địa đạo Củ Chi trả tiền làm thêm giờ là không có căn cứ.
Về yêu cầu trả tiền trực đêm, Địa đạo Củ Chi không đồng ý do: Theo quy định tại Mục 8.2 Điều 8 Nội quy hoạt động của Địa đạo Củ Chi thì “Thời gian trực từ 17h00’ đến 7h00’ sáng hôm sau. Đối với CBCNV làm nhiệm vụ trực đêm được nghỉ ngơi tại đơn vị lúc 16h00’ để chuẩn bị nhận ca trực. Thời gian làm việc sáng hôm sau bắt đầu từ lúc 7h30”. Theo quy định tại Mục 1 Điều 5 Thoả ước lao động tập thể ngày 11/4/2018 thì trách nhiệm của cán bộ công nhân viên là “Chấp hành nghiêm những nội quy, quy định của đơn vị”. Công việc trực đêm là nhiệm vụ của nhân viên bảo vệ rừng phải thực hiện nên Địa đạo Củ C không đồng ý với yêu cầu của ông L1. Ngoài ra, Địa đạo Củ C còn có phụ cấp cho ông S theo quy định bao gồm phụ cấp thâm niên, phụ cấp khu vực, phụ cấp lội rừng.
Tại phiên tòa sơ thẩm, phía bị đơn khẳng định từ sau khi ký phụ lục hợp đồng đến nay, phía Địa đạo C chỉ thay đổi hệ số lương theo đúng quy định và đúng hướng dẫn của Bảo hiểm xã hội, nhưng hàng tháng, Địa đạo Củ C vẫn duy trì tổng mức thu nhập của người lao động như trước, đồng thời cũng đã linh động áp dụng tất cả các quy định để đảm bảo hệ số lương đóng bảo hiểm cao nhất cho người lao động. Đối với việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện, bị đơn không có ý kiến gì.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi phát biểu:
I. Việc tuân theo pháp luật tố tụng:
1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như Hội đồng xét xử sơ thẩm và Thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
Có vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nhưng việc vi phạm này không ảnh hưởng đến nội dung giải quyết.
2. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử và thư ký phiên toà: Đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
3. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
II. Về việc giải quyết vụ án:
Đề nghị áp dụng điểm d khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 217, Điều 218, Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 357,468 của Bộ luật dân sự; các Điều 15, 16, 17, 23, 24, 25, 90, 200 của Bộ luật Lao động năm 2012; các Điều 85, 86 của Luật Bảo hiểm xã hội, đề nghị:
Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu trả bổ sung mức lương chênh lệch do tính lương không đúng từ năm 2013 đến tháng 11/2019 và yêu cầu thực hiện đúng thời gian lao động theo quy định của Luật Lao động và tính thời gian làm thêm và chế đô trực đêm theo quy định pháp luật của ông Huỳnh Thanh S;
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Thanh S về việc yêu cầu Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi đóng bổ sung bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho ông V1 từ ngày 01/01/2013 đến nay theo hợp đồng lao động đã ký kết với mức hệ số 4,20xX mức lương cơ sở từng thời kỳ chứ không phải hệ số 3,48 x mức lương cơ sở từng thời kỳ như bị đơn đã đóng từ năm 2013, cụ thể phải đóng bổ sung phần chênh lệch so với hệ số cũ là 0,72.
Tại bản án lao động sơ thẩm số 17/2022/LĐ-ST ngày 08/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
Căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 217, Điều 218, Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 15, 16, 17, 23, 24, 25, 90, 200 của Bộ luật Lao động năm 2012; các Điều 85, 86 của Luật Bảo hiểm xã hội; Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1] Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Thanh S đối với yêu cầu buộc Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi trả bổ sung mức lương chênh lệch do tính lương không đúng từ năm 2013 đến tháng 11/2019 cụ thể số tiền trả lương thiếu so với hệ số cũ sau khi đã trừ đi phần đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là 65.032.848 đồng và rút yêu cầu buộc Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi phải thực hiện đúng thời gian lao động theo quy định của Luật Lao động, phải tính thời gian làm thêm giờ và chế độ trực đêm theo quy định pháp luật.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Huỳnh Thanh S về việc yêu cầu Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi đóng bổ sung bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho ông từ ngày 01/01/2013 đến nay theo hợp đồng lao động đã ký kết với mức hệ số 4,20, cụ thể phải đóng bổ sung phần chênh lệch so với hệ so cũ là 0,72.
[2] Về án phí lao động sơ thẩm: Nguyên đơn được miễn án phí lao động theo quy định.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo, kháng nghị và việc yêu cầu thi hành án dân sự của các bên đương sự.
Ngày 14/9/2022 nguyên đơn kháng cáo toàn bộ bản án và đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể: Buộc Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi phải đóng bổ sung bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho ông Huỳnh Thanh S từ ngày 01/01/2013 đến nay theo hợp đồng lao động đã ký kết với mức hệ số 4,20 x L2 cơ sở từng thời kỳ, không phải hệ số 3,48 x L2 cơ sở từng thời kỳ như bị đơn đã đóng từ năm 2013 đến nay. Cụ thể phải đóng bổ sung phần chênh lệch so với hệ số cũ là 0,72 cho đủ hệ số cũ là 4,2 khi chuyển sang hệ số mới 3,48 từ năm 2013 đến nay và tiếp tục duy trì ở các năm tiếp theo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đối với một phần của bản án sơ thẩm.
Bị đơn trình bày việc không đóng tiền BHXH, BHYT, BHTN cho nguyên đơn theo đơn khởi kiện với lý do việc đóng tiền theo hệ số 4,20 không đúng quy định theo hướng dẫn tại Công văn số 338/CV-BHXH ngày 25/4/2019 Bảo hiểm xã hội huyện C. Bị đơn, đã đồng ý chuyển trả lại tiền đóng BHXH chênh lệch nhưng nguyên đơn không đồng ý nhận. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn trên tinh thần cầu thị đã tiếp tục có văn bản hỏi BHXH tại văn bản 144/CV-ĐĐCC ngày 07/12/2022 V/v điều chỉnh hệ số lương, % thâm niên vượt khung của Người lao động để đóng BHXH, BHYT, BHTN. Nhưng đến nay, vẫn không có văn bản trả lời hướng dẫn để bị đơn thực hiện để đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, đảm bảo cho các đương sự có các quyền và nghĩa vụ theo quy định; gửi các Quyết định, Thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương sự đầy đủ, đúng thời hạn. Hội đồng xét xử đúng thành phần, phiên tòa diễn ra theo đúng trình tự và quy định của pháp luật.
Về nội dung: Đề nghị chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với việc buộc bị đơn phải đóng bổ sung tiền BHXH, BHYT, BHTN từ ngày 01/01/2013 đến nay và duy trì trong những năm tiếp theo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa sau khi phân tích, đánh giá về kháng cáo, các tình tiết của vụ án, việc giải quyết, xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, đối chiếu những căn cứ pháp luật, Hội đồng xét xử Phúc thẩm nhận định:
Bản án sơ thẩm số 17/2022/LĐ-ST được tuyên vào ngày 08/9/2022, ngày 14/9/2022 nguyên đơn kháng cáo vì vậy đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, nguyên đơn được miễn tiền tạm ứng án phí phúc thẩm do đó Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm.
Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn:
[1] Nguyên đơn yêu cầu bị đơn đóng bổ sung BHXH, BHYT, BHTN từ ngày 01/01/2013 đến nay theo hợp đồng lao động đã ký kết với hệ số 4,20 nhân mức lương cơ sở từng thời kỳ từ năm 2013, cụ thể phải đóng bổ sung phần chênh lệch so với hệ số cũ là 0,72 nhân mức lương cơ sở từng thời kỳ và tiếp tục duy trì ở các năm tiếp theo cho đến khi Hợp đồng lao động được chấm dứt theo quy định pháp luật. Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với lý do căn cứ Nghị định 204/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/12/2004 và Thông tư số 79/2005/TT-BNV ngày 10/8/2005 của Bộ N1, mặc dù bị đơn vẫn trả lương cho nguyên đơn đầy đủ tương ứng với hệ số và đồng ý trả phần chênh lệch phải đóng BHXH trực tiếp cho nguyên đơn. Do đó, vấn đề Hội đồng xét xử đặt ra là căn cứ pháp luật để xác định mức lương làm cơ sở để đóng BHXH, BHYT, BHTN cho nguyên đơn, giải quyết yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.
[2] Căn cứ trình bày của hai bên đương sự xác định, năm 2003 nguyên đơn làm hợp đồng cho lâm viên C xã L, huyện C, sau chuyển sang Công ty D với nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên rừng tại Tiểu khu A rừng phòng hộ C hưởng lương ngân sách theo hệ số ngạch bậc do nhà nước quy định. Sau nhiều năm làm việc nguyên đơn được hưởng với hệ số 4,20 nhân với mức lương cơ bản do nhà nước quy định. Ngày 01/01/2013, nguyên đơn được chuyển về làm việc tại Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi làm việc theo Quyết định số 1466/QĐ-BTL ngày 06/11/2012 của Bộ Tư lệnh thành phố H và Quyết định số: 2978/QD-UBND ngày 18/6/2015 Ủy ban nhân dân Thành phố H và ký lại Hợp đồng lao động số 06/HĐLĐ-ĐĐCC-2013 với mức lương 4.20, phụ cấp khu vực 0,1, phụ cấp lội rừng 0,4. Do vậy cần xác định mức hệ số nguyên đơn hưởng theo ngân sách nhà nước là 4.20, đến khi ký lại Hợp đồng với bị đơn thì mức lương và các khoản phụ cấp không thấp hơn mức lương cũ.
[3] Xác định ngạch lương được hưởng: Bị đơn là đơn vị sự nghiệp công lập có thu nên phải áp dụng quy định tại khoản 2 Mục I Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính Phủ để xếp lương. Căn cứ Bảng 4 Nghị định này quy định ngạch bảo vệ cao nhất là bậc 12 có hệ số mức lương tương ứng là 3.48. Do đó, việc nguyên đơn được tăng hệ số lương lên 4,20 là không đúng quy định.
[4] Về căn cứ xếp lương: Tại điểm c và điểm đ khoản 10 Mục III Thông tư số 79/2005/TT-BNV của Bộ N1 ngày 10/8/2005 hướng dẫn chuyển xếp lương đối với cán bộ, công chức, viên chức khi thay đổi công việc và các trường hợp chuyển công tác từ lực lượng vũ trang, cơ yếu và Công ty N vào làm việc trong các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của nhà nước, hướng dẫn cách xếp lương như sau: “c) Sau khi chuyển xếp lương vào ngạch công chức, viên chức được bổ nhiệm theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 10 này, nếu hệ số lương được xếp ở ngạch được bổ nhiệm cộng với phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có) thấp hơn so với hệ số lương đang hưởng (theo thang lương, bảng lương trong công ty Nhà nước) tại thời điểm chuyển công tác, thì tùy từng trường hợp cụ thể và căn cứ vào tương quan tiền lương nội bộ, Thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức xem xét quyết định cho hưởng thêm hệ số chênh lệch bảo lưu. Nếu được hưởng hệ số chênh lệch bảo lưu, thì hệ số chênh lệch bảo lưu này (được tính tròn số sau dấu phẩy 2 số) giảm tương ứng khi cán bộ, công chức, viên chức được nâng bậc lương hoặc được hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung trong ngạch được bổ nhiệm (khi chuyển công tác) hoặc khi được nâng ngạch. đ) Quy định về xếp lương tại các điểm a, b, c, và d khoản 10 này cũng được áp dụng đối với các trường hợp đã được tuyển dụng hoặc ký hợp đồng lao động làm việc trong cơ quan Nhà nước và đơn vị sự nghiệp của Nhà nước đang xếp lương theo thang lương, bảng lương công nhân, nhân viên trực tiếp sản xuất kinh doanh trong công ty N”. Như vậy, trường hợp của nguyên đơn, để đảm bảo lương từ cơ quan cũ không thấp hơn khi sang cơ quan mới thì mức lương phải xếp theo đúng ngạch quy định tại Bảng 4 của Nghị định 204/2004/NĐCP, nếu hệ số lương mới thấp hơn thì phải cộng thêm hệ số thâm niên vượt khung; trường hợp vẫn thấp hơn lương cũ thì cho hưởng thêm hệ số chênh lệch bảo lưu, như hướng dẫn tại điểm c khoản 10, Mục III của Thông tư.
[51 Căn cứ Công văn số 338/CV-BHXH ngày 25/4/2019 Bảo hiểm xã hội huyện C V/v mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động tại Khu di tích lịch sử Địa đạo C, có nội dung: Khu di tích Địa đạo Củ Chi là đơn vị sự nghiệp có thu, vì vậy ... thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương ...tại Nghị định 204/2004/NĐCP thì tiền lương tháng đóng BHXH, BHYT, BHTN là tiền lương theo ngạch, bậc và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề. Tiền lương này tính trên mức lương cơ sở. Tiền lương tháng đóng BHXH, BHYT, BHTN (nếu có) quy định tại điểm này bao gồm cả hệ số chênh lệch bảo lưu theo quy định của pháp luật về tiền lương. Là đã hướng dẫn đúng theo tinh thần của Nghị định 204/2004/NĐCP, bị đơn đã xếp lương lại cho đúng, nhưng chưa cộng thêm phụ cấp thâm niên vượt khung và hệ số chênh lệch bảo lưu.
[6] Từ những căn cứ trên đủ cơ sở xác định bị đơn điều chỉnh hệ số lương từ 4.20 sang 3.48 là đúng quy định tại bảng 4 của Nghị định 204, nhưng chưa đầy đủ theo quy định hướng dẫn tại Thông tư 79 như đã nhận định tại phần trên. Do đó, hệ số mức lương cao nhất của nguyên đơn là 3.48 là không đủ với mức lương cũ thì cần cộng thêm Hệ số thâm niên vượt khung và Hệ số chênh lệch bảo lưu (tăng giảm tương ứng) đảm bảo đủ với mức lương tương ứng hệ số 4,20, như đề nghị của nguyên đơn để làm căn cứ tiền lương đóng BHXH, BHYT, BHTN.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, cũng như đề nghị của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận kháng cáo, sửa án sơ thẩm về phần này, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn phải tiếp tục đóng bổ sung bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho nguyên đơn đảm bảo mức lương tương ứng với mức hệ số 4,20 nhân mức lương cơ sở từng thời kỳ từ ngày 01/01/2013 đến nay, cụ thể phải đóng bổ sung phần chênh lệch là 0,72 nhân mức lương cơ sở từng thời kỳ và tiếp tục duy trì ở các năm tiếp theo cho đến khi Hợp đồng lao động được chấm dứt theo quy định pháp luật.
Đối với số tiền chênh lệch bảo hiểm xã hội mà Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi đã nhận lại từ cơ quan Bảo hiểm Xã hội huyện C là 6.504.409 đồng cho ông S, sẽ được giải quyết khi đôi bên đóng bổ sung bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Các phần khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị cần được giữ nguyên.
Nguyên đơn không phải chịu án phí lao động. Bị đơn phải chịu án phí lao động sơ thẩm không có giá ngạch.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
- Điều 38 Bộ luật Lao động năm 2012;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án (ban hành kèm theo);
- Nghị định số 205/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định về hệ thống thang lương, bảng lương và chế độ phụ cấp lương trong các Công ty Nhà nước.
- Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ quy định về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
- Thông tư 79/2005/TT-BNV của Bộ N1 về việc hướng dẫn chuyển xếp lương đối với cán bộ, công chức, viên chức khi thay đổi công việc và các trường hợp được chuyển công tác từ lực lượng vũ trang, cơ yếu và công ty N vào làm việc trong các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của nhà nước.
- Thông tư số 04/2005/TT-BNV ngày 05/01/2005 của Bộ N1 hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung đối với cán bộ, công chức, viên chức.
- Điểm c khoản 2 Mục I Thông tư số 02/2007/TT-BNV ngày 25/5/2007 của Bộ N1 hướng dẫn xếp lương khi nâng ngạch, chuyển ngạch chuyển loại công chức, viên chức.
- Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Tuyên xử: Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa một phần bản án sơ thẩm.
1. Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Thanh S đối với yêu cầu buộc Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi trả bổ sung mức lương chênh lệch do tính lương không đúng từ năm 2013 đến tháng 11/2019 cụ thể số tiền trả lương thiếu so với hệ số cũ sau khi đã trừ đi phần đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là 65.032.848 đồng và rút yêu cầu buộc Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi phải thực hiện đúng thời gian lao động theo quy định của Luật Lao động, phải tính thời gian làm thêm giờ và chế độ trực đêm theo quy định pháp luật.
2. Chấp nhận yêu cầu của ông Huỳnh Thanh S về việc buộc Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi đóng bổ sung bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho ông Huỳnh Thanh S từ ngày 01/01/2013 đến nay theo hợp đồng lao động đã ký kết với mức tiền đảm bảo tương đương hệ số 4,20, cụ thể phải đóng bổ sung phần chênh lệch so với hệ số cũ là 0,72 là bao gồm: Hệ số thâm niên vượt khung cộng Hệ số chênh lệch bảo lưu (tăng giảm tương ứng) nhân với mức lương cơ sở từng thời kỳ và tiếp tục duy trì ở các năm tiếp theo cho đến khi Hợp đồng lao động được chấm dứt theo quy định pháp luật.
- Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi có trách nhiệm đóng tiền lãi phạt chậm đóng bảo hiểm nếu có.
- Số tiền chênh lệch bảo hiểm xã hội mà Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi đã nhận lại từ cơ quan Bảo hiểm Xã hội huyện C là 6.504.409 đồng cho ông S, sẽ được giải quyết khi đôi bên đóng bổ sung bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
3. Về án phí:
Ông Huỳnh Thanh S không phải chịu án phí sơ thẩm và phúc thẩm.
Khu Di tích Lịch sử Địa đạo Củ Chi phải chịu án phí sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và không phải chịu án phí phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7; Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 295/2023/LĐ-PT
Số hiệu: | 295/2023/LĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 15/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về