Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 14/2022/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 14/2022/LĐ-ST NGÀY 31/08/2022 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI

Ngày 31 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số: 06/2022/TLST-DS ngày 03 tháng 6 năm 2022 về tranh chấp “Đòi tiền bảo hiểm xã hội”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2022/QĐXXST-LĐ ngày 03 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Minh Q, sinh năm 1960; địa chỉ: Số 100/1, Khóm C, Phường D, thành phố S, tỉnh B.

- Bị đơn: Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T; địa chỉ: Số 475, đường A, Phường B, thành phố S, tỉnh B.

Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Minh N – Chức vụ: Giám đốc.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội tỉnh B;

địa chỉ: Số 72, Trần Huỳnh, phường 1, thành phố B, tỉnh B.

Người đại diện theo ủy quyền: bà Huỳnh Thị Liên – Chức vụ: Trưởng phòng quản lý thu.

(Các đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 16/5/2022 và trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn ông Trần Minh Q trình bày:

Ông Trần Minh Q làm việc tại Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T (sau đây viết tắt là Công ty) từ năm 2002 với vị trí là công nhân sản xuất, ông làm việc tại Công ty đến ngày 31/12/2020 được nghĩ việc theo chế độ hưu trí, ông giao nộp quyết định thôi việc số 26 ngày 29/12/2020. Trong quá trình làm việc Công ty đã đăng ký bảo hiểm và đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho ông đủ đến tháng 8/2017, từ tháng 9/2017 đến tháng 12/2020 Công ty không đóng các loại bảo hiểm nêu trên cho ông, mặc dù hàng tháng Công ty vẫn trích từ tiền lương của ông để thực hiện việc đóng các loại bảo hiểm. Ông Q đã nghĩ việc từ ngày 31/12/2020 đến nay nhưng vẫn chưa được nhận chế độ bảo hiểm hưu trí theo quy định. Ông Q yêu cầu Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T phải đóng các khoản bảo hiểm còn nợ cho ông tại Bảo hiểm xã hội tỉnh B để ông được hưởng chế độ bảo hiểm cho người lao động theo quy định.

Tại đơn khởi kiện đề ngày 16/5/2022, ông Q yêu cầu Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T đóng các loại bảo hiểm cho ông tại Bảo hiểm xã hội tỉnh B với tổng số tiền tính đến tháng 5/2022 là 88.485.972 đồng (bao gồm số tiền chậm đóng 66.996.000 đồng và lãi 21.489.972 đồng). Ngày 28/7/2022, ông Q có Đơn yêu cầu bổ sung đơn khởi kiện, yêu cầu buộc Công ty phải đóng tiền lãi chậm đóng của các khoản bảo hiểm theo thống kê của cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh B đến thời điểm xét xử vụ án để bảo đảm quyền lợi cho ông.

Đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T trình bày:

Ông Nguyễn Minh N là Giám đốc của Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T (theo giấy phép kinh doanh) xác định Công ty có nợ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đối với người lao động tại công ty vì Công ty gặp khó khăn về kinh tế, trong đó có ông Trần Minh Q. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Trần Minh Q thì Công ty thừa nhận có nợ tiền bảo hiểm như ông Q yêu cầu và đồng ý thực hiện đóng tiền bảo hiểm còn nợ tại Cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh B theo quy định. Trường hợp đến thời điểm hiện tại số nợ các loại bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế có sự thay đổi do phát sinh lãi thì Công ty cũng chấp nhận để trả nợ bảo hiểm cho người lao động.

Tại văn bản ý kiến đề ngày 04/8/2022, bà Huỳnh Thị Liên người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Bảo hiểm xã hội tỉnh B trình bày:

Bảo hiểm xã hội tỉnh B xác nhận Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T nợ tiền các loại bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đối với người lao động của Công ty. Tính đến ngày 31/8/2022 thì Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T nợ tiền bảo hiểm các loại đối với ông Trần Minh Q là 89.956.406 đồng (bao gồm số tiền chậm đóng 66.996.000 đồng và lãi 22.960.406 đồng).

Bảo hiểm xã hội tỉnh B thống nhất yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị buộc Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T phải có trách nhiệm đóng đủ số tiền chậm đóng bảo hiểm cho ông Trần Minh Q để Bảo hiểm xã hội xác nhận và chốt được sổ bảo hiểm xã hội, đảm bảo quyền lợi cho ông Q.

* Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh B phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ theo thủ tục tố tụng và các văn bản có liên quan nên về hình thức tố tụng Viện kiểm sát xét thấy bảo đảm đủ điều kiện và hợp pháp. Các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng theo quy định của pháp luật Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự có đơn xin vắng mặt theo quy định.

- Về nội dung vụ án: Đại diện bị đơn Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T thừa nhận chưa đóng tiền bảo hiểm cho người lao động, trong đó có ông Trần Minh Q nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Minh Q, buộc Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T có trách nhiệm đóng đủ các khoản tiền bảo hiểm còn nợ cho ông Trần Minh Q tại Bảo hiểm xã hội tỉnh B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn phải đóng các khoản tiền bảo hiểm còn nợ nên đây là vụ án tranh chấp về bảo hiểm xã hội quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ tại thành phố B, tỉnh B. Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B.

[2] Xét xử vắng mặt đương sự: Nguyên đơn ông Trần Minh Q, đại diện bị đơn ông Nguyễn Minh N và đại diện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội tỉnh B là bà Huỳnh Thị Liên có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt tất cả các đương sự theo quy định tại Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Xét quan hệ lao động của các bên: Ông Q xác định làm việc tại Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T (trước đây là Công ty Cổ phần thức ăn chăn nuôi B) từ tháng 08/2001, đến tháng 12/2020 nghỉ hưu theo quy định. Các văn bản của Bảo hiểm xã hội tỉnh B và tại sổ bảo hiểm thể hiện ông Q đăng ký Bảo hiểm xã hội với mã số là 9302001677 và thời gian chưa đóng bảo hiểm là từ tháng 9/2017 đến thời điểm ông Q nghỉ hưu là tháng 12/2020; Đại diện bị đơn thừa nhận có nợ các khoản tiền bảo hiểm đối với nguyên đơn như nguyên đơn yêu cầu. Căn cứ quyết định thôi việc số 26 ngày 29/12/2020, Sổ bảo hiểm xã hội của ông Q thì có căn cứ xác định giữa ông Q và Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T có phát sinh quan hệ lao động hợp pháp từ tháng 08/2001 đến tháng 12/2020.

[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn: Đại diện bị đơn Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T thừa nhận chưa đóng các khoản tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động tại công ty vì Công ty gặp khó khăn về kinh tế, trong đó có ông Trần Minh Q. Tại văn bản ý kiến đề ngày 04/8/2022 của Bảo hiểm xã hội tỉnh B xác định Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T chưa đóng các khoản tiền bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế đối với người lao động của Công ty. Căn cứ theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự, thì đây là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh. Xét sổ bảo hiểm của ông Trần Minh Q thể hiện đã đóng bảo hiểm các loại đầy đủ đến tháng 8/2017. Từ tháng 9/2017 đến tháng 12/2020 (thời điểm ông Q nghĩ hưu) không đóng các loại bảo hiểm. Như vậy, Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T chậm đóng các khoản tiền bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đối với ông Trần Minh Q từ tháng 9/2017 đến tháng 12/2020. Hội đồng xét xử xét thấy, theo quy định tại Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội thì trách nhiệm của người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội theo quy định pháp luật, việc Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T đã trừ lương của nguyên đơn hàng tháng nhưng không trích nộp tiền bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn là vi phạm đến quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn theo quy định tại Khoản 5 Điều 21 và là hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 17 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014; Điều 48 Bộ Luật Lao động 2019 nên có căn cứ buộc Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế cho người lao động là ông Trần Minh Q từ tháng 9/2017 đến tháng 12/2020.

[5] Tại đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu bị đơn đóng tiền nợ bảo hiểm số tiền 88.485.972 đồng, trong đó tiền chậm đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 09 năm 2017 đến tháng 12 năm 2020 là 66.996.000 đồng, lãi chậm đóng là 21.489.972 đồng. Ngày 28/7/2022 nguyên đơn có yêu cầu buộc Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T phải đóng tiền lãi chậm đóng của các khoản bảo hiểm theo thống kê của cơ quan bảo hiểm xã hội đến thời điểm xét xử vụ án. Bảo hiểm xã hội tỉnh B xác nhận Công ty Cổ phần Cổ phần Thức ăn thủy sản T chưa đóng bảo hiểm cho ông Trần Minh Q tính đến ngày 31/8/2022 tổng cộng là 89.956.406 đồng, trong đó tiền chậm đóng là 66.996.000 đồng, lãi chậm đóng là 22.960.406 đồng. Căn cứ Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội, khoản 3 Điều 18 Nghị định 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ thì ngoài số tiền bảo hiểm xã hội phải đóng thì người sử dụng lao động còn có trách nhiệm nộp tiền lãi chậm đóng cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[6] Án phí lao động sơ thẩm: Ông Trần Minh Q được chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện nên không phải nộp án phí lao động sơ thẩm. Ông Q được miễn nộp tạm ứng án phí theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Bị đơn là Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T phải chịu án phí lao động sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự và Điều 26 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

[7] Đối với đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 32; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự;

- Điều 6, Điều 48, Điều 168 Bộ luật Lao động;

- Điều 21, Điều 86, khoản 3 Điều 122 Luật Bảo hiểm xã hội;

- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Minh Q.

Buộc Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T có trách nhiệm đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 09 năm 2017 đến tháng 12 năm 2020 cho ông Trần Minh Q tại cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh B.

Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T có trách nhiệm đóng tiền lãi chậm đóng theo quy định của pháp luật về Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.

2/. Về án phí lao động sơ thẩm: Buộc Công ty Cổ phần Thức ăn thủy sản T phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai, các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 14/2022/LĐ-ST

Số hiệu:14/2022/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 31/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về