TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 14/2021/LĐ-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI
Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Lao động thụ lý số: 58/2020/TLST-LĐ ngày 09 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐXXST-LĐ ngày 16/7/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2021/QĐST-LĐ ngày 16/8/2021, Thông báo mở lại phiên tòa số 58/2021/TB-TA ngày 15/10/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2021/QĐST-LĐ ngày 03 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Bá T, sinh năm 1984; địa chỉ: tổ 3, phường H, quận T, thành phố Đ. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Bị đơn:
+ Công ty TNHH P; địa chỉ: 53/3 Nguyễn Thị Minh Khai, khu phố T, phường T1, thành phố D, tỉnh B.
Người đại diện hợp pháp: Bà Tôn Thanh Th, sinh năm 1971; địa chỉ: 5/4 Nguyễn Văn Lượng, Phường 16, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; chức vụ: giám đốc; là người đại diện theo pháp luật. Vắng mặt
+ Công ty TNHH P2; địa chỉ: Số 1191 Lê Đức Thọ, Phường 13, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: Bà Tôn Thanh Th, sinh năm 1971; địa chỉ: 5/4 Nguyễn Văn Lượng, Phường 16, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; là người đại diện theo pháp luật. Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bảo hiểm xã hội thành phố D, tỉnh Bình Dương, địa chỉ: Trung tâm hành chính thành phố D, tỉnh B.
Người đại diện hợp pháp: Anh Dương Văn Tr, địa chỉ: Trung tâm hành chính thành phố D, tỉnh B; chức vụ: Nhân viên; là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 08/12/2020). Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện ngày 25 tháng 9 năm 2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày 27 tháng 10 năm 2020 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Nguyễn Bá T trình bày:
Anh Nguyễn Bá T làm việc tại Công ty TNHH P2 (gọi tắt là Công ty P2) từ ngày 14/02/2014, vị trí: Kế toán, địa điểm làm việc: 53/3 Nguyễn Thị Minh Khai, khu phố T, phường T1, thành phố D, tỉnh B. Giữa anh và Công ty P2 có ký kết hợp đồng lao động, tham gia bảo hiểm xã hội và hàng tháng công ty đều trích giữ lại một phần lương của anh tương ứng với phần trăm đóng bảo hiểm xã hội theo quy định. Mức lương cơ bản của anh T từ năm 2014 là 3.091.000 đồng/tháng, từ 01/01/2016 mức lương là 3.745.000 đồng/tháng và từ 01/01/2017 mức lương là 4.213.000 đồng/tháng.
Từ tháng 02/2018, anh được biết công ty chuyển sang loại hình pháp nhân là Công ty TNHH P. Anh T ký kết hợp đồng lao động với Công ty TNHH P và tiếp tục làm việc với vị trí: Kế toán, cùng địa điểm làm việc như trên. Mức lương cơ bản của anh là 4.471.530 đồng/tháng.
Đến tháng 01/2019 do sức khỏe giảm sút nên anh T nộp đơn xin nghỉ việc và được công ty chấp nhận, anh chính thức nghỉ việc từ ngày 20/3/2019. Anh đã nhiều lần liên hệ công ty để làm các thủ tục chốt sổ bảo hiểm xã hội nhưng công ty không thực hiện. Công ty TNHH P2 và Công ty TNHH P giữ toàn bộ các hợp đồng lao động ký kết với người lao động, anh chỉ được công ty giao 01 bản Hợp đồng lao động ngày 01/01/2016 giữa anh và Công ty TNHH P2.
Nay do Công ty TNHH P2 đã đóng bảo hiểm xã hội cho anh T đến tháng 5/2016 và Công ty TNHH P đã đóng bảo hiểm xã hội tháng 02/2018 nên anh Nguyễn Bá T khởi kiện yêu cầu: Buộc Công ty TNHH P2 đóng bảo hiểm xã hội và lập thủ tục xác nhận quá trình tham gia bảo hiểm xã hội cho anh từ tháng 6/2016 đến tháng 01/2018; Buộc Công ty TNHH P đóng bảo hiểm xã hội và lập thủ tục xác nhận quá trình tham gia bảo hiểm xã hội cho anh từ tháng 3/2018 đến hết tháng 3/2019.
Chứng cứ do nguyên đơn cung cấp: Hợp đồng lao động ngày 01/01/2016 giữa anh Nguyễn Bá T và Công ty TNHH P2; Sổ Bảo hiểm xã hội.
Các bị đơn Công ty TNHH P2 và Công ty TNHH P: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt cho các bị đơn thông báo thụ lý vụ án, thông báo yêu cầu cung cấp chứng cứ, yêu cầu tham gia phiên họp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng các bị đơn không đến Tòa án làm việc, không có văn bản trình bày ý kiến phản đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không có yêu cầu phản tố, không cung cấp tài liệu, chứng cứ.
- Tại bản tự khai ngày 29/12/2020, người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố D là anh Dương Văn Tr trình bày:
Chi nhánh Công ty TNHH P2 bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tại BHXH thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An) từ tháng 03/2011, tính đến tháng 11/2020 Chi nhánh Công ty TNHH P2 còn nợ số tiền 4.181.479.752 đồng, đã nộp tiền bảo hiểm xã hội đến hết tháng 5/2016. Chi nhánh Công ty TNHH P2 tham gia BHXH cho anh Nguyễn Bá T tại BHXH thành phố Dĩ An với số sổ 74141741xx từ tháng 9/2014 đến tháng 01/2018 (chưa chốt sổ). Về yêu cầu chốt sổ bảo hiểm xã hội của anh T tại Công ty TNHH P2 thì BHXH thành phố Dĩ An có ý kiến: đề nghị Chi nhánh Công ty TNHH P2 thanh toán số tiền bảo hiểm còn nợ riêng của anh T cho cơ quan BHXH thành phố Dĩ An và làm hồ sơ bảo lưu BHXH lên BHXH thành phố Dĩ An để bảo lưu sổ, trả sổ cho người lao động theo quy định.
Công ty TNHH P bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tại BHXH thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An) từ tháng 02/2018. Tính đến tháng 11/2020 Công ty P2 Bình Dương còn nợ số tiền 3.478.381.449 đồng, đã nộp tiền bảo hiểm xã hội đến hết tháng 02/2018. Công ty TNHH P tham gia BHXH cho anh T tại BHXH thành phố Dĩ An từ tháng 02/2018 đến tháng 02/2019 (chưa chốt sổ bảo lưu). Đối với yêu cầu khởi kiện của anh T, BHXH thành phố Dĩ An đề nghị Công ty TNHH P thanh toán số tiền còn nợ BHXH, BHYT, BHTN tính riêng của anh T từ tháng 3/2018 đến tháng 02/2019 và làm hồ sơ bảo lưu BHXH gửi lên cơ quan BHXH thành phố Dĩ An để chốt sổ cho anh T theo đúng quy định.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, các bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ tới tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ vào Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng là đúng quy định. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập và các đương sự cung cấp đã được thẩm tra tại phiên tòa, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận một phần. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
1 Về thủ tục tố tụng:
1.1 Căn cứ vào quan hệ lao động giữa nguyên đơn và bị đơn, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp lao động, cụ thể là “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội”. Bị đơn Công ty TNHH P có trụ sở tại 53/3 Nguyễn Thị Minh Khai, khu phố T, phường T1, thành phố D, tỉnh B; đối với bị đơn Công ty TNHH P2 thì nguyên đơn lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp là nơi tổ chức có chi nhánh, đồng thời cũng là nơi nguyên đơn làm việc tại số 53/3 Nguyễn Thị Minh Khai, khu phố T, phường T1, thành phố D, tỉnh B. Do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An theo điểm c khoản 1 Điều 35 và điểm b, đ khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
1.2 Các bị đơn Công ty TNHH P2 và Công ty TNHH P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do; nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội Dĩ An có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.
[2] Về nội dung: Nguyên đơn trình bày có phát sinh quan hệ lao động với các bị đơn từ tháng 02/2014 đến hết tháng 2/2019. Quá trình làm việc nguyên đơn được bị đơn tham gia bảo hiểm xã hội và hàng tháng bị đơn vẫn trích tiền lương của nguyên đơn để tham gia bảo hiểm xã hội. Qúa trình tố tụng, Tòa án đã yêu cầu bị đơn cung cấp chứng cứ là các bản hợp đồng lao động ký kết với nguyên đơn nhưng bị đơn không cung cấp, đồng thời không cung cấp ý kiến phản đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự. Mặt khác lời khai của nguyên đơn phù hợp với ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố D, phù hợp với các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp. Như vậy có căn cứ xác định giữa nguyên đơn với bị đơn có quan hệ lao động với nhau trên cơ sở hợp đồng lao động. Hợp đồng lao động giữa nguyên đơn và bị đơn trên tinh thần tự nguyện, không trái quy định của pháp luật nên có giá trị và hiệu lực thi hành. Việc đóng bảo hiểm xã hội là trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 19 và khoản 2, khoản 5 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội. Từ tháng 01/2016 đến hết tháng 01/2018, Công ty TNHH P2 (chi nhánh Dĩ An) có tham gia BHXH cho anh T và từ tháng 02/2018 đến hết tháng 02/2019, Công ty TNHH P tham gia BHXH cho anh T tại BHXH thành phố Dĩ An. Công ty TNHH P2 và Công ty TNHH P hàng tháng có trách nhiệm trích tiền lương của người lao động để đóng vào quỹ BHXH. Nay nguyên đơn không còn làm việc tại công ty bị đơn, tuy nhiên bị đơn không đóng bảo hiểm xã hội để hoàn tất thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn giai đoạn từ tháng 06/2016 đến tháng 01/2018 và từ tháng 3/2018 đến tháng 02/2019 là xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động theo quy định tại khoản 5 Điều 21 và là hành vi bị nghiêm cấm quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014; khoản 2 và khoản 3 Điều 47 Bộ Luật lao động. Đối với khoảng thời gian từ tháng 01/2016 đến tháng 5/2016 và tháng 02/2018, các bị đơn đã đóng đủ BHXH cho người lao động nên không cần buộc bị đơn đóng BHXH cho thời gian này, bị đơn phải phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội để lập hồ sơ xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo quy định. Ngoài ra, nguyên đơn yêu cầu xác nhận thời gian đóng bảo hiểm của tháng 3/2019 nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên căn cứ vào hồ sơ tại cơ quan BHXH thành phố Dĩ An để xác định thời gian làm việc và tham gia BHXH của nguyên đơn là đến tháng 01/2019.
[3] Từ những phân tích trên có đủ sơ sở chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[4] Về án phí: Nguyên đơn anh Nguyễn Bá T được miễn án phí. Bị đơn Công ty TNHH P2 và Công ty TNHH P phải chịu án phí lao động sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các điều 91, 144, 147, 235, 238, 244, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ Điều 47 Bộ luật Lao động năm 2012; căn cứ Điều 19 và Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội; căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Bá T đối với bị đơn Công ty TNHH P2 và bị đơn Công ty TNHH P về việc “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội”:
1.1. Buộc Công ty TNHH P2 phải đóng bảo hiểm xã hội cho anh Nguyễn Bá T trong khoảng thời gian làm việc từ tháng 6/2016 đến tháng 01/2018 và lập hồ sơ xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội của anh Nguyễn Bá T từ tháng 01/2016 đến tháng 01/2018.
1.2. Buộc Công ty TNHH P phải đóng bảo hiểm xã hội cho anh Nguyễn Bá T trong khoảng thời gian làm việc từ tháng 3/2018 đến tháng 02/2019 và lập hồ sơ xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội của anh Nguyễn Bá T từ tháng 02/2018 đến tháng 02/2019.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Bá T về việc buộc bị đơn Công ty TNHH P xác nhận thời gian tham gia bảo hiểm xã hội của tháng 3/2019.
3. Về án phí lao động sơ thẩm:
- Anh Nguyễn Bá T được miễn án phí.
- Công ty TNHH P2 phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).
- Công ty TNHH P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).
4. Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 14/2021/LĐ-ST
Số hiệu: | 14/2021/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 30/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về