Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 11/2018/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 11/2018/LĐ-ST NGÀY 04/09/2018 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI

Ngày 29 tháng 8 năm 2018 và ngày 04 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 06/2018/TLST-LĐ ngày 03 tháng 5 năm 2018 về việc: “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 239/2018/QĐST-LĐ ngày 13 tháng 8 năm 2018 giữa:

- Nguyên đơn: Ông Phú Mỹ T, sinh năm 1979 (có mặt) Địa chỉ : Số 36 đường 24, ấp T, xã T, huyện C, Thành phố H.

- Bị đơn: Công ty TNHH N Địa chỉ : Lô B2-9, Khu công Nghiệp T, ấp B, xã T, huyện C, Thành phố H.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nam Sung H - Chủ tịch hội đồng Thành viên Công ty.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lục Thị C, sinh năm: 1986 (có mặt) Địa chỉ : Tổ 3, ấp S, xã T, huyện C, Thành phố H.

(Theo Giấy ủy quyền ngày 30 tháng 5 năm 2018).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 28/3/2018 và các i khai trong qu tr nh giải quy t v n nguyên đơn ông Phú Mỹ T trình bày:

Ông làm việc tại Công ty TNHH N (gọi tắt là Công ty N) từ tháng 9/2010. Ông có quyết định thôi việc vào ngày 21/3/2018. Tuy nhiên trong quá trình làm việc thì Công ty N đã không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho ông từ tháng 12/2015 đến tháng 12/2017. Ông đã nhiều lần yêu cầu Công ty N giải quyết chế độ trên nhưng Công ty N không thực hiện. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, ông khởi kiện yêu cầu Công ty N phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho ông từ tháng 12/2015 đến tháng 12/2017, chốt sổ bảo hiểm xã hội đến tháng 12/2017, trả sổ bảo hiểm xã hội và chi trả trợ cấp thất nghiệp cho ông.

Tài liệu chứng cứ mà nguyên đơn nộp tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình: Phiếu lương tháng 8, 9, 10/2017; quyết đinh ngh việc.

- Tại phiên tòa ngày 29/8/2018 và tại phiên tòa ngày 04/9/2018, ông T trình bày:

Ông yêu cầu Công ty N đóng bảo hiểm xã hội cho ông từ tháng 12/2015 đến đến tháng 12/2017, chốt sổ bảo hiểm xã hội đến tháng 12/2017 và trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông. Ngoài ra, Công ty N phải chi trả trợ cấp thất nghiệp cho ông với số tiền là 27.165.000đ (hai mươi bảy triệu một trăm sáu mươi lăm nghìn đồng)

- Người đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH N bà L c Th C trình bày:

Bị đơn xác nhận ông Phú Mỹ T là người lao động của Công ty, ngh việc từ ngày 21/3/2018. Từ tháng 12/2015 đến tháng 12/2017, Công ty N chưa nộp bảo hiểm xã hội cho ông T vì Công ty gặp nhiều khó khăn, tạm ngừng sản xuất từ tháng 01/2018 cho đến nay nên chưa thể đóng bảo hiểm xã hội cho ông T.

Tại phiên tòa, Công ty N chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T. Số tiền nợ bảo hiểm xã hội của ông T mà Công ty N chưa đóng là 39.173đ (ba mươi chín triệu một trăm bảy mươi ba nghìn đồng), lãi chậm đóng đến tháng 7/2018 là 8.551.973đ (tám triệu năm trăm năm mươi mốt nghìn chín trăm bảy mươi ba đồng), tổng cộng là 47.724.973đ (bốn mươi bảy triệu bảy trăm hai mươi bốn nghìn chín trăm bảy mươi ba đồng).

Còn về chi trả tiền trợ cấp thất nghiệp cho ông T, Công ty N xác nhận số tiền trợ cấp thất nghiệp đáng lý ra ông T được hưởng là 27.165.000đ (hai mươi bảy triệu một trăm sáu mươi lăm nghìn đồng). Công ty N đồng ý thanh toán cho ông T số tiền này nhưng hiện nay đang gặp khó khăn nên Công ty chưa xác định được cụ thể thời gian để đóng bảo hiểm xã hội cho ông T cũng như chi trả trợ cấp thất nghiệp cho ông T.

- Ý ki n của Kiểm s t viên tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời thừa nhận của các bên đương sự, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Công ty TNHH N phải đóng bảo hiểm xã hội cho ông T với số tiền là 39.173đ (ba mươi chín triệu một trăm bảy mươi ba nghìn đồng), lãi chậm đóng đến tháng 7/2018 là 8.551.973đ (tám triệu năm trăm năm mươi mốt nghìn chín trăm bảy mươi ba đồng), tổng cộng là 47.724.973đ (bốn mươi bảy triệu bảy trăm hai mươi bốn nghìn chín trăm bảy mươi ba đồng); buộc Công ty N chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông T đến tháng 12/2017 và trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông T; buộc Công ty N thanh toán tiền trợ cấp thất nghiệp cho ông T với số tiền là 27.165.000đ (hai mươi bảy triệu một trăm sáu mươi lăm nghìn đồng), thi hành ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng:

Theo nội dung đơn khởi kiện của nguyên đơn có cơ sở xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là: “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội” được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 32 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn có trụ sở hoạt động tại xã Tân An Hội, huyện Củ Chi nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,

[2] Về nội dung:

- Tại phiên tòa, ông T yêu cầu Công ty TNHH N (gọi tắt là Công ty N) có trách nhiệm đóng tiền bảo hiểm xã hội cho ông từ tháng 12/2015 đến tháng 12/2017, chốt sổ bảo hiểm xã hội đến tháng 12/2017, trả sổ bảo hiểm xã hội và thanh toán tiền trợ cấp thất nghiệp cho ông.

Tại phiên tòa, phía bị đơn thống nhất số tiền bảo hiểm xã hội của ông T mà Công ty N chưa nộp là 39.173đ (ba mươi chín triệu một trăm bảy mươi ba nghìn đồng), lãi chậm đóng đến tháng 7/2018 là 8.551.973đ (tám triệu năm trăm năm mươi mốt nghìn chín trăm bảy mươi ba đồng), tổng cộng là 47.724.973đ (bốn mươi bảy triệu bảy trăm hai mươi bốn nghìn chín trăm bảy mươi ba đồng).

Phía đại diện Công ty N cho rằng do hoàn cảnh Công ty hiện nay quá khó khăn nên chưa thể nộp số tiền trên vào quỹ bảo hiễm xã hội được. Công ty N thừa nhận chưa chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông T đến tháng 12/2017 và chưa trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông T.

Theo quy định tại Điều 92, Điều 102 của Luật Bảo hiểm xã hội thì người sử dụng lao động hàng tháng phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Việc Công ty N chậm nộp bảo hiểm xã hội cho người lao động đã xâm phạm đến quyền lợi của người lao động và gây khó khăn cho việc giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động. Theo tài liệu do nguyên đơn cung cấp, căn cứ kết quả xác nhận của cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện Củ Chi và sự thừa nhận của phía bị đơn thì Công ty N đã vi phạm nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động mặc dù hàng tháng Công ty đã trích thu khoản tiền này của người lao động. Bắt đầu từ tháng 12/2015 đến tháng 12/2017, Công ty N không thực hiện đóng bảo hiểm xã hội cho ông T với số tiền là 39.173đ (ba mươi chín triệu một trăm bảy mươi ba nghìn đồng), lãi chậm đóng đến tháng 7/2018 là 8.551.973đ (tám triệu năm trăm năm mươi mốt nghìn chín trăm bảy mươi ba đồng), tổng cộng là 47.724.973đ (bốn mươi bảy triệu bảy trăm hai mươi bốn nghìn chín trăm bảy mươi ba đồng). Do vậy, cần buộc Công ty N phải có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho ông T số tiền trên là có cơ sở và phù hợp quy định của pháp luật. Đồng thời, buộc Công ty N phải chốt sổ bảo hiểm xã hội đến tháng 12/2017 và trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông T, thực hiện ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa, các bên đương sự đều thống nhất số tiền trợ cấp thất nghiệp mà Công ty N phải thanh toán cho ông T là 27.165.000đ (hai mươi bảy triệu một trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) nên cần buộc Công ty N phải thanh toán cho ông T số tiền trên ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là phù hợp.

Phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án là hoàn toàn phù hợp quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử.

Căn cứ Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015, cần buộc Công ty TNHH N phải trả tiền lãi suất phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án.

Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu tiền án phí theo quy định tại Luật phí và lệ phí số: 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 213, Điều 246, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 15, Điều 22, Điều 157, Điều 200 Bộ luật lao động năm 2012;

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 31, Điều 38, Điều 39, Điều 92, Điều 102 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014;

- Căn cứ Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Căn cứ Điều 6, Điều 7, Điều 26, Điều 30, Điều 31 và Điều 32 của Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi bổ sung năm 2014).

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Phú Mỹ T về việc yêu cầu Công ty TNHH N phải nộp bảo hiểm xã hội cho ông T từ tháng 12/2015 đến tháng 12/2017, chốt sổ bảo hiểm xã hội đến tháng 12/2017 và trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông T.

Buộc Công ty TNHH N phải nộp vào quỹ bảo hiểm xã hội số tiền nợ bảo hiểm xã hội của ông T từ tháng 12/2015 đến tháng 12/2017 với số tiền là 39.173.000đ (ba mươi chín triệu một trăm bảy mươi ba nghìn đồng), lãi chậm đóng đến tháng 7/2018 là 8.551.973đ (tám triệu năm trăm năm mươi mốt nghìn chín trăm bảy mươi ba đồng), tổng cộng là 47.724.973đ (bốn mươi bảy triệu bảy trăm hai mươi bốn nghìn chín trăm bảy mươi ba đồng)); buộc Công ty TNHH N phải chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông T đến tháng 12/2017 và trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông T, thi hành ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Buộc Công ty N thanh toán tiền trợ cấp thất nghiệp cho ông T với số tiền là 27.165.000đ (hai mươi bảy triệu một trăm sáu mươi lăm nghìn đồng), thi hành ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày ông T có đơn yêu cầu thi hành án đối với các khoản tiền trợ cấp thất nghiệp mà Công ty TNHH N phải trả cho ông T cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng Công ty TNHH N còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Thi hành tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

2. Về án phí:

Án phí lao động sơ thẩm buộc Công ty TNHH N phải nộp là 3.843.153đ (ba triệu tám trăm bốn mươi ba nghìn một trăm năm mươi ba đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, điều 7, điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 11/2018/LĐ-ST

Số hiệu:11/2018/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 04/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về