Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 03/2024/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 03/2024/LĐ-ST NGÀY 11/01/2024 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI

Vào ngày 11 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An xét xử sơ thẩm vụ án lao động thụ lý số 93/2023/TLST-LĐ ngày 12 tháng 10 năm 2023 về “Tranh chấp Bảo hiểm xã hội”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2023/QĐXXST-LĐ ngày 08 tháng 12 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2023/QĐ-LĐ ngày 25 tháng 12 năm 2023, giữa:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị S, sinh năm 1983; địa chỉ thường trú: Ấp V, xã V, huyện C, tỉnh An Giang, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Công ty TNHH K; địa chỉ: Khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện theo pháp luật: Người đại diện: Bà Wang Hui C - Giám đốc, Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo Hiểm xã hội thành phố T, tỉnh Bình Dương; trụ sở: Khu phố B, phường L, thành phố T, tỉnh Bình Dương - người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Minh H - Giám đốc. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Thị S trình bày:

Bà Trần Thị S làm việc tại Công ty TNHH K (sau đây gọi tắt là Công ty K) từ năm 2010 và có giao kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn, vị trí công việc là công nhân may. Mức lương giao kết hợp đồng là 6.185.000 đồng/tháng.

Trong quá trình làm việc tại công ty thì công ty có đóng bảo hiểm xã hội cho bà Trần Thị S theo đúng quy định. Tuy nhiên, từ tháng 11/2022, mặc dù công ty vẫn thu tiền đóng bảo hiểm xã hội của bà Trần Thị S với số tiền 649.425 đồng/tháng (tương đương mức lương 6.185.000 đồng) nhưng Công ty K không đóng tiền đó cho cơ quan Bảo hiểm xã hội để bà Trần Thị S được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định.

Sau nhiều lần thắc mắc đến công ty nhưng vẫn không được giải quyết nên bà Trần Thị S đã gửi đơn đến Phòng L và Xã hội để tiến hành hòa giải nhưng công ty vẫn không thực hiện. Đến ngày 11/5/2023, bà Trần Thị S được công ty cho nghỉ việc theo yêu cầu, công ty đã giao trả sổ bảo hiểm xã hội cho bà Trần Thị S. Sau khi nghỉ việc, bà Trần Thị S thực hiện các thủ tục để hưởng chế độ theo quy định nhưng không thực hiện được do Công ty còn nợ tiền bảo hiểm xã hội của bà Trần Thị S tại cơ quan bảo hiểm.

Do đó, bà Trần Thị S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các nội dung sau:

1. Buộc Công ty TNHH K phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà Trần Thị S từ tháng 11/2022 đến tháng 4/2023 với mức 649.425 đồng/tháng.

2. Buộc Công ty TNHH K phải bồi thường tiền hưởng bảo hiểm thất nghiệp cho bà Trần Thị S số tiền 44.532.000 đồng tương đương với thời gian 12 tháng x 60% x 6.185.000 đồng.

Quá trình tố tụng, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc Công ty K phải bồi thường tiền bảo hiểm thất nghiệp số tiền 44.532.000 đồng đồng. Giữ nguyên yêu cầu về việc buộc công ty Đ.

Các tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp để chứng minh yêu cầu khởi kiện: Bản photo biên bản hoà giải, sổ Bảo hiểm xã hội, quyết định nghỉ việc; Bản chứng thực căn cước công dân của nguyên đơn.

Ý kiến của Đại diện Bảo hiểm xã hội thành phố T, tỉnh Bình Dương:

Bảo hiểm xã hội thành phố T chưa thực hiện chốt sổ đối với mã số 7410162304 của bà Trần Thị S do đơn vị đóng bảo hiểm nợ. Đơn vị đóng bảo hiểm đã thanh toán tiền bảo hiểm đến tháng 10/2022, số nợ tạm tính đến ngày 08/11/2023 là 8.790.644 đồng.

Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần đế tham gia tố tụng nhưng người đại diện theo pháp luật của bị đơn vẫn không đến làm việc cũng như không ủy quyền cho ai đến Tòa án tham gia tố tụng và cũng không có văn bản trình bày ý kiến cũng như cung cấp tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Quá trình đưa vụ án ra xét xử, nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện, đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện và ý kiến trình bày trong quá trình tố tụng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An trình bày:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng cố tình vắng mặt là tự từ bỏ quyền và nghĩa vụ tố tụng và phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn phải đóng tiền bảo hiểm xã hội còn thiếu cho bà Trần Thị S và thực hiện thủ tục chốt sổ bảo hiểm xã hội cho bà Trần Thị S theo đúng quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn là Công ty TNHH K có trụ sở tại: Khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương đóng tiền bảo hiểm xã hội còn nợ. Căn cứ Điểm d, Khoản 1, Điều 32; Điểm c, Khoản 1, Điều 35; Điểm a, Khoản 1, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, xác định quan hộ pháp luật “tranh chấp về bảo hiểm xã hội” và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.

[1.2] Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điểm b, Khoản 2, Điều 227; Khoản 1, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Quá trình tố tụng, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với phần buộc bị đơn phải bồi thường tiền trợ cấp thất nghiệp. Xét đây là ý chí tự nguyện của nguyên đơn, phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[3] Quá trình tố tụng, nguyên đơn không cung cấp được hợp đồng lao động được ký kết giữa nguyên đơn với Công ty K, tuy nhiên, căn cứ vào sổ bảo hiểm xã hội, biên bản hòa giải tranh chấp lao động và Quyết định Nghỉ việc cho thấy nguyên đơn đã làm việc tại Công ty K từ tháng 5/2010 và được Công ty K đóng Bảo hiểm đến tháng 10/2022. Công ty K không cung cấp chứng cứ nào khác. Do đó, có căn cứ xác định bà Trần Thị S là công nhân làm việc tại Công ty K có ký kết hợp đồng lao động theo đúng quy định và có hiệu lực pháp luật.

Đến tháng 5/2023, bà Trần Thị S chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty K. Việc chấm dứt hợp đồng lao động là tự nguyện, tuy nhiên Công ty K không thực hiện việc chốt sổ bảo hiểm và nộp tiền bảo hiểm xã hội vào cơ quan bảo hiểm theo quy định gây ảnh hưởng đến quyền lợi của bà Trần Thị S.

[4] Xét yêu cầu về việc buộc bị đơn phải đóng và chốt sổ bảo hiểm xã hội của nguyên đơn thấy:

[4.1] Theo các chứng cứ của Bảo hiểm xã hội thành phố T cung cấp thì hiện nay Bảo hiểm xã hội chưa thực hiện chốt sổ bảo hiểm xã hội cho bà Trần Thị S do Công ty K còn nợ quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của người lao động bà Trần Thị S từ tháng 11/2022 cho đến thời điểm hiện tại.

[4.2] Căn cứ theo quy định của pháp luật thì hàng tháng Công ty K đã thu quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của bà Trần Thị S nhưng không nộp cho Bảo hiểm xã hội theo đúng quy định. Như vậy Công ty K đã vi phạm Điều 17, Điều 18, Điều 21 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần triệu tập, yêu cầu cung cấp chứng cứ, thông báo việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ để Công ty K có mặt và cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến yêu cầu khởi kiện của người lao động nhưng Công ty đều vắng mặt. Do đó, Công ty phải chịu hậu quả pháp lý về sự vắng mặt của mình.

[4.3] Để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của bà Trần Thị S nên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Trần Thị S đối với Công ty K về việc buộc Công ty K phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà Trần Thị S từ tháng 11/2022 đến tháng 4/2023 và thực hiện các thủ tục chốt sổ bảo hiểm xã hội cho bà Trần Thị S theo quy định của pháp luật.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở phù hợp quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[6] Án phí lao động sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí lao động sơ thẩm không có giá ngạch đối với yêu cầu về đóng và chốt sổ bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm d, Khoản 1, Điều 32; Điểm c, Khoản 1, Điều 35; Điểm a, Khoản 1 Điều 39; các Điều 147, 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Các Điều 16, 17, 24 và 168 Bộ Luật lao động năm 2019;

Các Điều 18 và 21 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014;

Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị S về việc “Tranh chấp bảo hiểm xã hội” đối với Công ty TNHH K.

2. Buộc Công ty TNHH K phải đóng các khoản bảo hiểm xã hội gồm (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp) vào quỹ Bảo hiểm xã hội của Bảo hiểm xã hội thành phố T cho bà Trần Thị S từ tháng 11/2022 đến tháng 04/2023 và thực hiện các thủ tục chốt sổ bảo hiểm xã hội cho bà Trần Thị S theo đúng quy định của pháp luật.

3. Mức đóng và số tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp mà Công ty TNHH K phải đóng vào Quỹ bảo hiểm được áp dụng và tính theo quy định của pháp luật về Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực thi hành và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi bằng mức lãi suất quy định tại Khoản 2, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

4. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị S về việc: Buộc Công ty TNHH K phải bồi thường tiền hưởng bảo hiểm thất nghiệp cho bà Trần Thị S số tiền 44.532.000 đồng tương đương với thời gian 12 tháng x 60% x 6.185.000 đồng.

5. Về án phí lao động sơ thẩm: Công ty TNHH K phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7A và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 03/2024/LĐ-ST

Số hiệu:03/2024/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 11/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về