Bản án về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính số 136/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 136/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI DO VI PHẠM QUY TẮC NGHỀ NGHIỆP HOẶC QUY TẮC HÀNH CHÍNH

Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 90/2022/TLST- HS ngày 06 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh T, sinh năm 1980 tại Ninh Thuận; HKTT: Khu phố A, thị trấn G, huyện X, tỉnh Đồng Nai; Hiện tạm trú: tổ 2, thôn 1B, xã Trà T, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu K, sinh năm: 1957 và bà Tô Thị Mỹ L (đã chết); Vợ: Trương Thị H, sinh năm 1981; có 02 người con chung, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2004; Tiền án, tiền sự: không.

Hiện bị cáo đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt);

- Bị hại: Anh Lê Thanh To, sinh năm: 2004 (đã chết)

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Lê Thanh To:

1. Ông Lê Thái S, sinh năm: 1966 (cha ruột)

2. Bà Trịnh Thị A, sinh năm: 1966 (mẹ ruột) Cùng địa chỉ: ấp 5, xã Xuân H, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

Ông S và bà Anh ủy quyền cho ông Lê Như Y, sinh năm 1974, hiện cư trú tại: ấp 5, xã Xuân H, huyện X (theo giấy ủy quyền do UBND xã Xuân Hưng chứng thực ngày 07/4/2022 và ngày 11/7/2022)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người đại diện hợp pháp của bị hại: Luật sư Vũ Thế H (Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh)- Công ty Luật TNHH MTV Livelaw. Địa chỉ: 105/5 Lê S, phường Tân Q, quận T, TP.HCM.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Phan Tấn P, sinh năm 1976. Địa chỉ: số 30 Trần P, Khu phố A, thị trấn G, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

2. Anh Hoàng Văn H, sinh năm: 1989. Địa chỉ: Tổ 4, Khu phố B, thị trấn G, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

(Bị cáo, ông Y, ông H, ông P, ông H có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khu liên hợp thể thao hồ bơi Riverside, thuộc ấp A, xã Xuân H, huyện X, tỉnh Đồng Nai gồm các hạng mục như khu tiệc cưới, khu sân banh, khu cà phê và khu hồ bơi do ông Phan Tấn P, thường trú tại khu phố A , thị Trấn G, huyện X, tỉnh Đồng Nai làm chủ sở hữu và hoạt động hợp pháp theo giấy phép kinh doanh số 47G8010596 do Ủy ban nhân dân huyện Xuân Lộc, cấp ngày 21/5/2020. Đến ngày 22/6/2020, ông P ký hợp đồng và cho Nguyễn Thanh T thuê để kinh doanh với số tiền thuê là 15.000.000 đồng/tháng. Quá trình kinh doanh, T đã thuê ông Hoàng Văn H làm nhân viên hướng dẫn kỹ thuật bơi và cứu hộ tại hồ bơi Riverside với mức lương cơ bản 7.000.000 đồng/tháng, nhưng không làm hợp đồng lao động. Vào sáng ngày 30/4/2021, Hồ bơi Riverside vẫn mở cửa hoạt động kinh doanh bình thường.

Đến đầu giờ chiều cùng ngày, do có việc đột xuất nên ông Hạnh có xin T nghỉ làm việc buổi chiều và bàn giao công việc trông coi, cứu hộ lại cho T. Vào khoảng 15 giờ cùng ngày, anh Lê Quang To, sinh năm 2004, cư trú tại ấp 5, xã Xuân H, huyện X, tỉnh Đồng Nai cùng người nhà đến hồ bơi Riverside để tắm. Đến khoảng 15 giờ 26 phút, dù To không biết bơi nhưng đã nhảy xuống hồ bơi (diện tích 15m x 25m, sâu 1,9m) để tắm. Lúc này, do trời nắng nóng, T đang dùng vòi xịt nước khu vực xung quanh hồ bơi và các khu vực lân cận nên không phát hiện được sự việc để thực hiện việc cấp cứu đối với anh To. Do không phát hiện kịp thời nên anh To bị chìm xuống dưới hồ, đến 15 giờ 35 phút khi phát hiện và đưa lên bờ thì anh To đã chết.

* Vật chứng vụ án:

- 01 DVD quay lại quá trình anh Lê Quang To xuống tắm và chết đuối.

- Số tiền 100.000.000 đồng Nguyễn Thanh T giao nộp khắc phục hậu quả.

* Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 929/KLGĐ-PC09 ngày 25/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

- Dấu hiệu chính: Bên ngoài không thấy dấu vết tổn thương do ngoại lực tác động, kết mạc mắt xuất huyết.

- Nguyên nhân tử vong: Không đủ cơ sở kết luận giám định.

* Trách nhiệm dân sự: Sau sự việc xảy ra, Nguyễn Thanh T đã đến động viện, thăm hỏi và đề nghị hỗ trợ chi phí mai táng, bồi thường thiệt hại cho gia đình anh Lê Quang To số tiền 200.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng, nhưng ông Lê Thái S (cha ruột của nạn nhân To) và những người trong gia đình không đồng ý nhận số tiền trên. Ông S và những người trong gia đình nạn nhân To yêu cầu bồi thường chi phí mai táng, bồi thường thiệt hại về tinh thần với số tiền 300.000.000 đồng. Do các bên liên quan không thỏa thuận được về dân sự, nên Nguyễn Thanh T đã tự nguyện giao nộp số tiền 100.000.000 đồng để tạm thời khắc phục hậu quả cho gia đình nạn nhân Lê Quang To.

Tại bản cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 29/12/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính” theo khoản 1 Điều 129 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa ngày 06/5/2022, HĐXX đã quyết định trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc để yêu cầu điều tra bổ sung thu thập chứng cứ để làm rõ nguyên nhân tử vong của người bị hại Lê Quang To do đuối nước hay do nguyên nhân khác.

Ngày 06/7/2022, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc có văn bản số 352/VKD-HS giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng số 03/CT-VKSXL ngày 29/12/2021.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo theo cáo trạng và đề nghị:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 03 năm đến 04 năm. Do các bên không tự thỏa thuận được với nhau về mức bồi thường nên đề nghị Tòa xem xét theo quy định pháp luật.

Ý kiến của ông Y: Ông không đồng ý với tình tiết giảm nhẹ Kiểm sát viên đưa ra do bị cáo không có thiện chí bồi thường thiệt hại cũng như chưa thành khẩn khai báo. Do đó mức án VKS đề nghị chưa nghiêm minh. Ngoài ra về trách nhiệm của ông P chưa được xem xét đến nên yêu cầu làm rõ trách nhiệm của ông P trong vụ án này.

Ý kiến của luật sư H: Bị cáo không có thành ý bồi thường cho gia đình bị hại. Việc gia đình bị hại yêu cầu bồi thường 489.440.000 đồng là phù hợp có căn cứ nên đề nghị HĐXX chấp nhận. Về mức án Viện kiểm sát đưa ra chưa cân xứng với hành vi của bị cáo nên cần xem xét lại. Đối với ông P là chủ hồ bơi, ông không đồng ý rằng ông P không có thu nhập trực tiếp từ hồ bơi, ông P đã hưởng lợi 15 triệu đồng từ bị cáo T nên cùng có lợi nhuận từ hồ bơi nên cũng phải chịu trách nhiệm. Việc ông P giao cho ông T là người không có đủ điều kiện làm nghề kinh doanh hồ bơi nên ông P có lỗi. Do đó hồ sơ có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm đối với ông P, đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung làm rõ trách nhiệm của ông P.

Bị cáo Nguyễn Thanh T nói lời sau cùng: Bị cáo hiện nay không có nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ già yếu, bệnh tật.... bị cáo cũng vô cùng ăn năn khi vì sự vô ý của mình đã gây nên sự việc, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có điều kiện làm việc chăm lo cho cha mẹ, vợ con và có tiền để bồi thường cho gia đình bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh T khai nhận To bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Khu liên hợp thể thao hồ bơi Riverside Xuân Lộc, thuộc ấp A, xã Xuân H, huyện X, tỉnh Đồng Nai do bị cáo Nguyễn Thanh T thuê lại của ông Phan Tấn P vào ngày 22/6/2020 và là người trực tiếp quản lý. Vào khoảng 15 giờ ngày 30/4/2021, tại Khu liên hợp thể thao hồ bơi Riverside Xuân Lộc, dù biết rằng hồ bơi của mình đang quản lý không có nhân viên cứu hộ (do nhân viên cứu hộ Hoàng Văn H xin nghỉ phép) nhưng T vẫn cho hồ bơi hoạt động, vẫn nhận khách đến bơi. Cũng chính do không có nhân viên cứu hộ nên khi người bị hại Lê Quang To đến tắm tại hồ bơi đã không được cứu hộ kịp thời, hậu quả là anh To đã tử vong.

Hành vi của bị cáo T đã vi phạm quy định Khoản 3, Điều 5 Thông tư số 03/2018/TT-BVHTTDL ngày 19/01/2018 của Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch; Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 36/NĐ-CP ngày 29/4/2019 của Chính phủ quy định một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thể dục, thể thao.

Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tác hành chính” quy định tại khoản 1 Điều 129 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện nộp tiền tại Chi cục Thi hành án dân sự để bồi thường thiệt hại, bị cáo hiện là lao động chính trong gia đình, có hoàn cảnh gia đình khó khăn được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì bị cáo đã không tuân thủ theo các quy tắc nghề nghiệp nên đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe người khác nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm, tương xứng, phù hợp với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nhằm răn đe bị cáo và để giáo dục, phòng ngừa chung.

Xét thấy bị cáo T có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này, bị cáo chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc; bị cáo có trên 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; có nơi cư trú cụ thể rõ ràng; bị cáo cũng không thuộc trường hợp không cho hưởng án treo và xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù do bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội theo quy định tại Nghị quyết 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng thêm Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo T được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định là phù hợp.

[6] Về bồi thường dân sự: Ông Lê Thái S và bà Trịnh Thị A (là cha, mẹ ruột của Lê Quang To) có đơn đề nghị bồi thường thiệt hại với tổng số tiền là 479.440.000 đồng, bao gồm:

- Thiệt hại do tổn thất về tính mạng và tinh thần gồm: Chi phí do xâm phạm tính mạng: 100.400.000 đồng; Sức khỏe của hàng thừa kế thứ 1 bị xâm phạm 298.000.000 đồng, trong đó ông Lê Thái S yêu cầu bồi thường 149.000.000 đồng, bà Trịnh Thị A yêu cầu bồi thường 149.000.000 đồng.

- Thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khỏe, trong đó chi phí và thu nhập bị mất của ông S là 29.760.000 đồng, chi phí và thu nhập bị mất của bà A là 27.280.000 đồng. Tổng là 57.040.000 đồng - Chi phí, thiệt hại khác (đi lại khiếu kiện, in ấn, photo, điện thoại, trả lãi vay tiền làm đám tang, chi phí liên quan tố tụng...) tạm tính từ ngày 30/4/2021 đến nay là 24.000.000 đồng.

Xét thấy: Việc ông Lê Thái S và bà Trịnh Thị A (là cha và mẹ ruột của người bị hại Lê Quang To) yêu cầu bị cáo Nguyễn Thanh T có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tính mạng của con trai ông bà là Lê Quang To bị xâm hại là có căn cứ theo quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015.

Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 591 Bộ luật dân sự về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm thì HĐXX xem xét chấp nhận các khoản bồi thường sau:

- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm: không có.

- Chi phí hợp lý cho việc mai táng (theo Nghị quyết 03/2006 ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì chi phí hợp lý là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp với giá trung bình của địa phương tại thời điểm chi phí) gồm:

+ Các khoản tiền mua quan tài và vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm:

47.000.000 đồng (theo hóa đơn ngày 06/5/2021 của chủ cơ sở Hoàng Thân).

+ Chi phí cho việc chôn cất gồm: nhân công đào huyệt 1.200.000 đồng, tiền vòm rạp 6.000.000 đồng, tiền trang trí đám tang 3.000.000 đồng, tiền nước uống phục vụ đám tang 1.200.000 đồng. Tổng 11.400.000 đồng - Tiền cấp dưỡng cho những người mà bị hại To có nghĩa vụ cấp dưỡng: Không, do anh To tại thời điểm chết chưa có vợ con, cha mẹ anh To là người còn khả năng lao động (nhân công của cơ sở mộc Huỳnh Điểu).

Ngoài ra, chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần của ông S, bà Anh (hàng thừa kế thứ nhất của anh To) mỗi người 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, cụ thể: Ông S: 74.500.000 đồng (50 x 1.490.000đ); bà Anh:

74.500.000 đồng (50 x 1.490.000đ). Tổng 149.000.000 đồng.

Như vậy, các chi phí hợp lý được chấp nhận là 207.400.000 đồng. Tuy nhiên, do hiện nay hiện nay bị cáo T có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thiệt hại quá lớn so với khả năng của bị cáo T, lỗi của bị cáo T trong vụ án này là lỗi vô ý nên HĐXX chấp nhận giảm một phần mức bồi thường cho bị cáo T từ 207.400.000 đồng xuống còn 157.400.000 đồng (quy định tại khoản 2 Điều 585 Bộ luật dân sự).

[7] Về xử lý vật chứng vụ án:

- 01 DVD ghi hình quá trình anh Lê Quang To xuống tắm và chết đuối tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án.

- Số tiền 100.000.000 đồng Nguyễn Thanh T giao nộp khắc phục hậu quả sẽ được tiếp tục giữ lại tại Chi cục thi hành án huyện Xuân lộc để đảm bảo thi hành án.

[8] Đối với ông Phan Tấn P: Qua xem xét, HĐXX nhận thấy giữa ông P và bị cáo T đã ký kết Hợp đồng cho thuê ngày 22/6/2020, trong đó có thỏa thuận bị cáo T trả tiền thuê hàng tháng và phải chịu trách nhiệm đảm bảo an To tai nạn trong hoạt động khuôn viên Khu liên hợp thể thao-du lịch-phim trường Riverside Xuân Lộc. Qua các lời khai và tại phiên tòa, cả bị cáo T và ông P đều thừa nhận tính có thật của Hợp đồng này và bị cáo T thừa nhận trách nhiệm xảy ra tại hồ bơi hoàn To là của bị cáo. Do vậy ông P không liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án này.

[9] Đối với ý kiến và đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[10] Đối với ý kiến của ông Y và luật sư H không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án nên không chấp nhận.

[11] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) và 7.870.000đ (Bảy triệu tám trăm bảy mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền bị cáo phải bồi thường.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính”.

[1] Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 129; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách là 02 (hai) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Thanh T cho Ủy ban nhân dân xã Trà T, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2] Về bồi thường dân sự: Căn cứ Điều 584, khoản 2 Điều 585, Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015.

Bị cáo Nguyễn Thanh T phải bồi thường cho ông Lê Thái S và bà Trịnh Thị A số tiền 157.400.000đ (Một trăm năm mươi bảy triệu bốn trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[3] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án 01 (một) DVD ghi hình quá trình anh Lê Quang To xuống tắm và chết đuối.

- Số tiền 100.000.000 đồng Nguyễn Thanh T giao nộp khắc phục hậu quả sẽ được tiếp tục giữ lại tại Chi cục thi hành án huyện Xuân lộc để đảm bảo thi hành án của Nguyễn Thanh T (theo Biên bản tạm giữ đồ vật ngày 15/5/2021 – bút lục 67 và Biên lai thu tiền số 0007525 ngày 12/1/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc).

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 7.870.000đ (Bảy triệu tám trăm bảy mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

[5] Về kháng cáo: Bị cáo và các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính số 136/2022/HS-ST

Số hiệu:136/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về