Bản án về tội vô ý gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác số 197/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 197/2023/HS-ST NGÀY 20/09/2023 VỀ TỘI VÔ Ý GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHOẺ CỦA NGƯỜI KHÁC

 Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 179/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 201/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2023, đối với các bị cáo:

1. Trần Quang H, sinh ngày 08 tháng 5 năm 1989, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Tổ T, phường T, quận K, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quang D, sinh năm 1946 và bà Trần Thị T, sinh năm 1951; chưa có vợ, con. Gia đình có hai anh em, bị cáo là thứ hai; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ ngày 08/01/2023; tạm giam 17/01/2023; được thay đổi biện pháp ngăn chặn - Quyết định về việc bảo lĩnh ngày 22/6/2023; có mặt;

Người bào chữa: Ông Nguyễn Quang Đ - Luật sư Văn phòng L1 và cộng sự thuộc Đoàn Luật sư thành phố H; có mặt;

2. Phạm Đức T1, sinh ngày 29 tháng 5 năm 1987, tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Tổ H, phường T, quận K, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Tổ T, phường T, quận K, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đức H1, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1967; có vợ là Vũ Thị C và hai con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2019. Gia đình có ba anh em, bị cáo là thứ nhất; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ ngày 08/01/2023; tạm giam 17/01/2023; được thay đổi biện pháp ngăn chặn - Quyết định về việc bảo lĩnh ngày 22/6/2023; có mặt;

- Bị hại: Ông Cao Xuân T2, sinh năm 1967; nơi ĐKHKTT: Số A ngõ H đường T, phường V, quận K, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: số A đường N, phường P, quận K, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đầu tháng 01 năm 2023, Trần Quang H rủ Phạm Đức T1 làm pháo để sử dụng trong dịp tết Nguyên Đán năm 2023. T1 đồng ý và tìm hiểu trên kênh YouTube thì biết để làm ra pháo nổ phải mua hóa chất bao gồm: Lưu huỳnh, Kali Cl, than hoa rồi xay nhỏ ra thành bột mịn pha trộn với nhau thành thuốc pháo nổ; sau đó sẽ mua thân pháo và dây cháy chậm rồi nhồi thuốc pháo theo tỷ lệ để tạo thành quả pháo nổ. Ngày 06/01/2023, T1 bảo H sang cửa hàng H3, địa chỉ: số B N, Quận L, thành phố Hải Phòng mua 0,5 kg Lưu huỳnh, 0,9 kg Kali Clorat với giá 250.000 đồng và đến khu vực chợ P, K mua 03kg than hoa với giá 60.000 đồng. Mua được số hóa chất trên, H cất trong cốp xe máy biển kiểm soát: 82B1- 421.xx rồi đi về nhà và thông báo cho T1 biết. Khoảng 13 giờ ngày 07/01/2023, H lái xe máy trên chở T1 mang số hóa chất nêu trên và 01 kg than hoa đến nhà ông Cao Xuân T2, địa chỉ: số A N, phường P, quận K, thành phố Hải Phòng để xay nhuyễn ra làm thuốc pháo nổ. T1 nói: “Chú xay cho cháu ít bột”, còn H mở cốp xe lấy ra 03 túi nilon đặt giữa sân trước cửa nhà. H và T1 không nói gì về cách thức cũng như hướng dẫn cho ông T2. Ông T2 mở ra xem thì thấy có Kali Clorat, Lưu huỳnh và than hoa nên hỏi: “Chúng mày xay làm pháo à?”, T1, H không nói gì. Ông T2 cho túi Kali Clorat vào xay xong đựng vào túi nilon rồi tiếp tục cho Lưu huỳnh vào máy xay, được vài giây thì máy xay phát nổ, ông T2 bị thương nằm bất tỉnh. Thịnh kéo ông T2 ra ngoài, mọi người đưa ông T2 đi bệnh viện cấp cứu tại bệnh viện K1, còn H và T1 sợ đi xe máy về nhà.

Cơ quan điều tra tiến hành khám nghiệm hiện trường thu giữ được nhiều mảnh vụn và chất bột liên quan đến vụ việc: Dấu vết máu, máy xay bị vỡ, các mảnh vụn nhựa, kim loại và một số chất bột nằm rải rác quanh khu vực phát nổ.

Tại bản Kết luận giám định số 33/KL-KTHS(CN) ngày 13/01/2023 của Phòng K2 - Công an thành phố H kết luận: “Các mảnh vụn màu đen ký hiệu mẫu 1 gửi giám định là Carbon (than). Chất bột màu vàng ký hiệu mẫu 2 gửi giám định là Lưu huỳnh. Chất bột màu trắng ký hiệu mẫu 3 và chất bột màu trắng thu tại vị trí số 5 khi khám nghiệm hiện trường là Kali Clorat, C2, Lưu huỳnh và Kali Cl là nguyên liệu trực tiếp để sản xuất thuốc pháo nổ”.

Cơ quan điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định đối với thương tích của ông T2. Tại bản kết luận giám định pháp y bổ sung số 184/2023/TgT ngày 05/4/2023 của Trung tâm P1 kết luận: “Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân Cao Xuân T2 do các thương tích trên gây nên theo phương pháp cộng là 62%”.

Tại Cơ quan điều tra, xét hỏi, Trần Quang H và Phạm Đức T1 khai nhận nội dung trên và khai nhận: Trong quá trình chuẩn bị các nguyên liệu để làm thuốc pháo và mang đến thuê ông T2 xay nhỏ, H và T1 không nhận thức được việc yêu cầu ông T2 xay các loại hóa chất như C2, Lưu h và Kali Cl cùng một lúc sẽ phát nổ và gây thương tích, làm tổn hại cho sức khỏe cho ông T2.

Ông Cao Xuân T2 khai phù hợp với nội dung trên và khai trong quá trình điều tra, H và T1 đã tự nguyện bồi thường cho ông T2 số tiền chữa trị thương tích là 50.000.000 đồng. Ông T2 có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho H và T1, đồng thời không yêu cầu bồi thường thêm.

Lời khai nhận của H và T1 phù hợp với nội dung nêu trên, phù hợp với lời khai của ông Cao Xuân T2, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định: Ngày 07/01/2023, Trần Quang H và Phạm Đức T1 đã có hành vi mua các nguyên liệu Kali Clorat, Lưu huỳnh và C2 (than hoa) về chế tạo thuốc pháo nổ nhằm mục đích làm pháo nổ và thuê ông Cao Xuân T2 xay. Quá trình xay các nguyên liệu này thì máy xay phát nổ dẫn đến hậu quả ông T2 bị gãy xương đùi, gãy xương bàn tay phải, bỏng da, xước da gây tổn thương 62% cơ thể.

Về vật chứng của vụ án: 01 xe máy máy nhãn hiệu HONDA số loại LEAD, biển kiểm soát: 82.B1-421.xx màu sơn: Trắng nâu; số máy: JF45E07861xx; số khung: RLHJF451FY7593xx; đăng ký xe mang tên Nguyễn Thị Thảo L đã bán cho anh Trần Quang H nhưng chưa sang tên; 01 điện thoại di động Iphone 8 Plus màu đen, số sêri FD6VW1VAJCxx; số IMEL: 3567690893321xx; 01 điện thoại Iphone X màu đen số IMEI: 3567410877167xx, số sêri: GHKWP0BEJCLK, trong máy có sim điện thoại số 09811994xx; 01 chiếc môtơ là bộ phận của máy xay, tối màu, đã bị hư hỏng chuyển Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng chờ xử lý. 01 túi than củi (than hoa) có trọng lượng khoảng 02 kg chuyển Bộ Chỉ huy quân sự thành phố quản lý.

Tại bản Cáo trạng số 178/CT-VKS-P1 ngày 15 tháng 8 năm 2023, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố các bị cáo Trần Quang H và Phạm Đức T1 về tội “Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Quang H và bị cáo Phạm Đức T1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và thừa nhận nội dung Viện kiểm sát truy tố là đúng. Sau khi mua được Lưu huỳnh, K, than H2 (là những nguyên liệu để các bị cáo làm pháo) thì khoảng 13 giờ ngày 07/01/2023 H và T1 mang đến nhà ông T2 thuê xay nhỏ các nguyên liệu này thì máy xay phát nổ gây thương tích cho ông T2 đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Khi mang các nguyên liệu này đến để thuê ông T2 xay thì các bị cáo H và T1 đều không biết về phản ứng hoá học của các chất trên. Các bị cáo đã bồi thường cho ông T2 50.000.000 đồng để phần nào khắc phục hậu quả. Sau khi sự việc xảy ra các bị cáo rất ân hận và nhận thức được trách nhiệm về pháp luật đối với việc làm của các bị cáo, coi đây là bài học để rút kinh nghiệm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Người bào chữa cho bị cáo H không tranh luận với Kiểm sát viên về tội danh và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo H. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm để áp dụng một mức hình phạt thấp nhất đối với bị cáo H như: Nguyên nhân, điều kiện phạm tội; sự thiếu hiểu biết của các bị cáo về nguy cơ tiềm ẩn cháy, nổ đối với các nguyên liệu làm pháo và thiếu hiểu biết về pháp luật; bị cáo H không trực tiếp gây ra thương tích cho bị hại nên có thể áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm 1 khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; tại phiên toà bị cáo H đã thực sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Tại phiên toà bị hại - ông T2 xác nhận lời trình bày của các bị cáo là đúng với nội dung vụ án. Các bị cáo và ông T2 đều không lường trước được hậu quả khi tiến hành xay các chất này. Các bị cáo đã bồi thường cho ông T2 50.000.000 đồng, ông T2 không còn yêu cầu bồi thường và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày quan điểm luận tội: Giữ nguyên nội dung truy tố đối với các bị cáo Trần Quang H và Phạm Đức T1 về tội Vô ý gây tổn hại cho sức khoẻ người khác theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự (Gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên), đồng thời phân tích hành vi, nhân thân, tính chất vụ án và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bố của bị cáo H tham gia kháng chiến chống Mỹ, được Chủ tịch nước tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhì; bị cáo T1 có thời gian tham gia trong quân đội; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, b, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Trần Quang H mức án từ 05 tháng đến 06 tháng tù; bị cáo Phạm Đức T1 mức án từ 05 tháng đến 06 tháng tù. Về dân sự: Bị hại không còn yêu cầu nên không đặt vấn đề giải quyết. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả bị cáo H chiếc xe máy nhãn hiệu Honda số loại Lead, biển số: 82.B1-421.xx, màu sơn trắng nâu và 01 đăng ký xe mang tên Nguyễn Thị Thảo L và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone X màu đen đã qua sử dụng, dung lượng 64Gb, số I: 3567410877167xx. Trả lại bị cáo Phạm Đức T1 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 8 Plus màu đen đã qua sử dụng, dung lượng 64Gb, số I: 3567690893321xx. Đối với 01 chiếc mô tơ là bộ phận của máy xay, tối màu, đã bị hư hỏng là của ông Cao Xuân T2, tại phiên toà ông T2 không yêu cầu nhận lại. Vật chứng này không còn sử dụng được nên cần tịch thu, tiêu hủy - Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; 01 túi than củi (than hoa) có trọng lượng khoảng 02kg đã chuyển Bộ chỉ huy quân sự thành phố quản lý nên không đặt vấn đề giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên toà, các bị cáo H và T1 khai nhận đã cùng bàn bạc làm pháo nổ. Cách thức làm pháo các bị cáo xem trên Youtube. H đã mua Lưu huỳnh, KaliClorat và than hoa. Sau khi mua được thì khoảng 13h ngày 07/01/2023 các bị cáo đến nhà ông T2 để thuê xay các chất nêu trên thành bột mịn. Bị cáo T1 và H không biết các chất này có phản ứng hoá học khi xay. Trong quá trình xay các chất này thì máy xay bị nổ làm tổn hại 62% sức khoẻ của ông T2. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng; phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường lập hồi 15h40’ ngày 07/01/2023 và các tài liệu khác có trong hồ sơ về thời gian, địa điểm phạm tội và các tình tiết của vụ án. Lời khai của các bị cáo còn được chứng minh qua thương tích của bị hại - ông Cao Xuân T2 đã được kết luận tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 17/2023/TgT ngày 13/01/2023 và Bản kết luận giám định pháp y bổ sung về thương tích số 184/2023/TgT ngày 05/4/2023 đều của Trung tâm P1 kết luận: Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân Cao Xuân T2 do các thương tích đã nêu tại hai bản kết luận gây nên theo phương pháp cộng tại Thông tư là 62%. Vết bỏng da vùng trước mặt, mặt trái, vành tai trái, cẳng tay hai bên, bộ phận sinh dục có đặc điểm do bỏng nhiệt gây nên. Các vết thương rách da, rách xước da, xây xước da có đặc điểm do tác động tương hỗ trực tiếp với vật có góc cạnh cứng, có thể tương đối sắc tác động trực tiếp gây nên. Các vết bầm tím có đặc điểm do tác động tương hỗ trực tiếp với vật tày gây nên. Lời khai của các bị cáo còn được chứng minh qua Bản kết luận giám định số 33/KL-KTHS(CN) ngày 13/01/2023 của Phòng K2 - Công an thành phố H, kết luận: Các mảnh vụn màu đen ký hiệu mẫu 1 gửi giám định là Carbon (than). Chất bột màu vàng ký hiệu mẫu 2 gửi giám định là Lưu huỳnh. Chất bột màu trắng ký hiệu mẫu 3 và chất bột màu trắng thu tại vị trí số (5) khi khám nghiệm hiện trường là Kali Clorat. Carbon, Lưu huỳnh và Kali Cl là nguyên liệu trực tiếp để sản xuất thuốc pháo nổ. Tìm thấy Lưu huỳnh và Kali Clorat bám dính trên quần áo của ông Cao Xuân T2. Lưu huỳnh và Kali Clorat khi kết hợp với nhau trong điều kiện thích hợp gây cháy, nổ. Nguyên nhân gây ra vụ nổ tại số nhà A N, phường P, quận K, thành phố Hải Phòng là do hỗn hợp chất Lưu h1 và Kali Clorat có trong máy xay đặt tại vị trí số 1 (ký hiệu trong Biên bản khám nghiệm hiện trường) bị nghiền, trộn tạo ma sát sinh nhiệt gây cháy, nổ. Vị trí: Cách tường phía Bắc của sân 0,27m, cách tường phía Đông 0,4m, cao cách nền 0,7m. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo H và bị cáo T1 về tội Vô ý gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là có căn cứ. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự (gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên).

- Về tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:

[3.1] Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo đều thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bố của bị cáo H tham gia kháng chiến chống Mỹ, được Chủ tịch nước tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhì; bị cáo T1 có thời gian tham gia trong quân đội; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, b, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đối với quan điểm của người bào chữa cho bị cáo H đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm 1 khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo H là không có căn cứ nên không chấp nhận.

[3.2] Các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.3] Về nhân thân: Các bị cáo H và T1 đều không có tiền án, tiền sự.

[4] Về vai trò của các bị cáo H và T1: BỊ cáo H và bị cáo T1 có vai trò ngang nhau trong vụ án, được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ giống nhau nên phải chịu mức hình phạt ngang nhau - Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt:

[5] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi của các bị cáo H và T1 là nguy hiểm cho xã hội vì đã xâm phạm đến sức khoẻ của người khác và gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an chung nên cần phải được xử lý thỏa đáng, cần thiết phải cách ly các bị cáo với xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung. Hội đồng xét xử sẽ xem các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, hoàn cảnh phạm tội để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần trong khi lượng hình (Điều 38 của Bộ luật Hình sự). Tính từ thời điểm các bị cáo H và T1 bị tạm giữ, tạm giam (tạm giừ ngày 08/01/2023) cho đến thời điểm được thay thế biện pháp ngăn chặn - Quyết định về việc bảo lĩnh ngày 22/6/2023 là 05 tháng 16 ngày, xét thấy cần buộc các bị cáo phải chấp hành mức hình phạt tương ứng với thời gian các bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam cũng có tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Đối với anh Phạm Quý S (sinh năm 1973; địa chỉ: Số C Quán T, phường Đ, quận K, thành phố Hải Phòng) là nhân viên bán hàng của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên V không biết các bị cáo H và T1 mua hoá chất về làm pháo nổ. Công ty V có Giấy đăng ký kinh doanh được phép bán Kali Clorat, Lưu huỳnh nên không có căn cứ để xử lý.

- Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

[7] Các bị cáo H và T1 đã bồi thường cho bị hại - ông T2 50.000.000 đồng. Ông T2 không yêu cầu bồi thường thêm nên không đặt vấn đề giải quyết.

- Về vật chứng:

[8] Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda số loại Lead, biển số: 82.B1-421.xx, màu sơn trắng nâu và 01 đăng ký xe mang tên Nguyễn Thị Thảo L (do H mua của L nhưng chưa làm thủ tục sang tên); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone X màu đen đã qua sử dụng, dung lượng 64 Gb; số Imei: 3567410877167xx không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo H. Chiếc điện thoại di động Iphone 8 Plus màu đen, dung lượng 64 Gb; đã qua sử dụng, số I: 3567690893321xx không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo T1. Chiếc mô tơ là bộ phận của máy xay, tối màu, đã bị hư hỏng là tài sản của ông T2, ông T2 từ chối nhận lại nên cần tịch thu, tiêu hủy - Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với 01 túi than củi (than hoa) có trọng lượng khoảng 02kg đã chuyển Bộ chỉ huy quân sự thành phố quản lý nên không đặt vấn đề giải quyết.

[9] Về án phí: Các bị cáo H và T1 phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật - điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 138; điểm s, b, i khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử:

1. Bị cáo Trần Quang H: 05 (Năm) tháng 16 (mười sáu) ngày tù về tội “Vô ý gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 08/01/2023. Bị cáo Trần Quang H đã chấp hành xong hình phạt tù.

2. Bị cáo Phạm Đức T1: 05 (Năm) tháng 16 (mười sáu) ngày tù về tội “Vô ý gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 08/01/2023. Bị cáo Phạm Đức T1 đã chấp hành xong hình phạt tù.

3. Về bồi thường dân sự: Bị cáo Trần Quang H và bị cáo Phạm Đức T1 đã bồi thường cho ông Cao Xuân T2 50.000.000 đồng. Ông Cao Xuân T2 không còn yêu cầu bồi thường.

Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

4. Về xử lý vật chứng:

4.1. Trả lại bị cáo Trần Quang H chiếc xe máy nhãn hiệu Honda số loại Lead, biển số: 82.B1-421.xx, màu sơn trắng nâu và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone X màu đen đã qua sử dụng, dung lượng 64 Gb; số I: 3567410877167xx.

4.2. Trả lại bị cáo Phạm Đức T1 01 điện thoại di động Iphone 8 Plus màu đen, đã qua sử dụng, dung lượng 64 Gb; số I: 3567690893321xx.

4.3. Tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc mô tơ là bộ phận của máy xay, tối màu, đã bị hư hỏng.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/6/2023) 4.4. Trả lại bị cáo Trần Quang H 01 đăng ký xe mang tên Nguyễn Thị Thảo L.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 5. Về án phí: Bị cáo Trần Quang H và bị cáo Phạm Đức T1 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo Trần Quang H, Phạm Đức T1 và ông Cao Xuân T2 đều có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,7a,9 của Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vô ý gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác số 197/2023/HS-ST

Số hiệu:197/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về