Bản án về tội vô ý gây thương tích số 892/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 892/2022/HS-PT NGÀY 12/12/2022 VỀ TỘI VÔ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 12 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 556/2022/TLPT-HS ngày 08 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo Clark Andrew S do có kháng cáo của bị cáo S, người bị hại là ông Sullivan Joshep D đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 271/2022/HSST ngày 21 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo: Clark Andrew S, sinh năm 1980 tại Vương Quốc Anh; Chỗ ở: B20.01 Lux Garden, phường Phú Thuận, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Vương quốc Anh; Con ông Andrew C (sinh năm 1950) và bà Lun C (sinh năm 1954); Tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Từ năm 1992 đến năm 2019, sinh sống và làm việc tại nhiều quốc gia khác nhau như Vương Quốc Anh, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Cộng hòa Pháp, N; Ngày 25/12/2019, Clark Andrew S sử dụng hộ chiếu số 548337636 nhập cảnh vào Việt Nam vì mục đích thương mại. Ngày 07/4/2021, bị khởi tố về tội “Vô ý gây thương tích” theo Điều 138 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

Người bào chữa theo yêu cầu cho bị cáo S: Luật sư Đoàn Thị Thu H thuộc Công ty Luật TNHH Park P - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ: số 26 Nguyễn Hữu c, phường Tân Định, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người phiên dịch tiếng Anh cho bị cáo S: ông Nguyễn Duy H - Phiên dịch viên thuộc Công ty TNHH Thương mại và Dịch thuật Khả Quý, (có mặt)

- Người bị hại: ông Sullivan Joshep D, sinh năm 1972.

Chỗ ở: Phòng 12, Lầu 10, Tòa A2 chung cư T, số 56 đường số 66, phường Thảo Điền, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt) Người đại diện theo ủy quyền của ông D: bà Trần Thị Thanh T, sinh năm 1996. (có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông D: Luật sư Nguyễn Thị T thuộc Công ty Luật TNHH LHLegal. (có mặt) Cùng địa chỉ: số 17A đường Phan Bội C, Phường 2, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 18/7/2020, ông Sullivan Joshep D đến ăn uống tại quán MTL (địa chỉ số 251B2 đường Nguyễn Văn Hưởng, phường Thảo Điền, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh) cùng bà Fiona Louise Thompson sinh năm 1977, quốc tịch Vương Quốc Anh), ông Adam Redvers Thompson (sinh năm 1972, quốc tịch Vương Quốc Anh) và ông Luke Daniel Heller (sinh năm 1985, quốc tịch Hoa Kỳ). Tại đây, ông Sullivan Joshep D thấy Clark Andrew S đang điều khiển thiết bị bay không người lái (Flycam) bay tại khu vực quầy pha chế. Do có quen biết từ trước, ông Sullivan Joshep D đến trao đổi việc điều khiển Flycam bay đồng thời đề nghị được điều khiển Flycam bay. Tuy nhiên, Clark Andrew S không đồng ý vì không đảm bảo an toàn và tiếp tục điều khiển Flycam bay trên trần nhà cách mặt đất khoảng 2m. Khi ông Sullivan Joshep D về ngồi cùng với bạn để tiếp tục ăn tối, nói chuyện thì lúc này, Clark Andrew S đang đứng cách bàn ông Sullivan Joshep D đang ngồi khoảng 3m và điều khiển Flycam thì Flycam bay chao đảo, không điều khiển được và bay về hướng bàn ông Sullivan Joshep D đang ngồi. Lúc này, những người bạn cùng bàn cảnh báo việc Flycam đang bay về phía ông Sullivan Joshep D. Vì vậy, ông Sullivan Joshep D đã quay sang trái, hướng về quầy pha chế thì bị Flycam bay đập vào mắt trái. Sau đó, ông Clark Andrew S đưa ông Sullivan Joshep D đến Phòng khám HCMC Family Medical Practice để khám và tiếp tục được chuyển đến Bệnh viện Chợ Rầy để rửa mắt, cắt lọc mống mắt, dịch kính phòi và Bệnh viện FV để phẫu thuật cắt dịch kính mắt.

Ngày 04/11/2020, ông Sullivan Joseph D có đơn yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Clark Andrew S về hành vi sử dụng, điều khiển Flycam gây thương tích cho ông. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Clark Andrew S đã thừa nhận hành vi như trên.

Tại Bản kết luận giám định số 50/TgT.21 ngày 29/01/2021 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận đối với tỷ lệ thương tật của từng vết thương và tổng tỷ lệ phần trăm thương tật các vết thương của ông Sullivan Joshep D như sau: “Chấn thương vùng mắt trái gây sây sát da và sung bầm mô mềm, rách giác mạc, phòi mống và dịch kính, mất thủy tinh thể đã được điều trị khâu giác mạc, bơm hơi tiền phòng, cắt mống mắt và dịch kính, mổ lần hai cắt dịch kính, tách dính mống và dịch kính, khâu vết mở củng mạc, hiện còn tình trạng mắt trái thị lực đếm ngón tay 04 mét, sẹo giác củng mạc...Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 34% (ba mươi bốn phần trăm)”.

Ngày 14/03/2021, Phân viện Khoa học Hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh có kết luận giám định số 704/C09B như sau: Thiết bị bay không người lái nhãn hiệu MAVIC MINI có số 1SZDGBD11280P có tính năng quay phim, ghi hình từ trên cao, được điều khiển bởi bộ điều khiển không dây. Không đủ cơ sở kết luận lịch sử hoạt động và dữ liệu trích xuất trong thiết bị.

Kết quả xác minh tại Cục Tác chiến, Bộ Tổng tham mưu, Bộ Quốc Phòng xác định: Không cấp phép cho cá nhân ông Clark Andrew S được tổ chức bay phương tiện bay không người lái trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định tại Nghị định số 36/2008/NĐ-CP ngày 28/03/2008 của Chính phủ về quản lý tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ.

Về dân sự: ông Sullivan Joshep D yêu cầu bồi thường số tiền 2.258.386.678 đồng, ông Clark Andrew S đã bồi thường số tiền 16.000.000 đồng cho bị hại.

Về vật chứng thu giữ: 01 (một) thiết bị bay không người lái nhãn hiệu MAVIC MINI có số 1SZDGBD11280P, bị cáo Clark Andrew S trình bày đã mua tại trang mua bán online Chợ tốt nhung không nhớ số tiền và thời gian mua.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Bị cáo Clark Andrew S trình bày: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nhu nội dung bản Cáo trạng mà vị đại diện Viện kiểm sát đã công bố. Bị cáo rất ăn năn, hối cải với hành vi của mình đã gây ra.

Người đại diện hợp pháp của bị hại - bà Trần Thị Thanh T trình bày: Tại phiên tòa hôm nay, người bị hại có thay đổi số tiền yêu cầu bồi thường thiệt hại so với số tiền trong quá trình điều tra. Theo đó, số tiền yêu cầu cho đến thời điểm xét xử sơ thẩm là 1.903.538.250 đồng, trong đó bao gồm:

+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa: 215.400.078 đồng;

+ Chi phí bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, giảm sút: 29.201.000 đồng;

+ Thu nhập bị mất với tổng thu nhập thiệt hại: 386.570.430 đồng;

+ Tổn thất về tinh thần: 200.000.000 đồng;

+ Chi phí dự kiến để tiếp tục điều trị mắt tạm tính: 1.012.881.742 đồng;

+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế của người chăm sóc bị mất trong thời gian điều trị: 59.485.000 đồng.

Hiện nay, mắt của bị hại bị ảnh hưởng nghiêm trọng về thị lực, từ đó đã làm xáo trộn hoàn toàn về công việc, cuộc sống gia đình nên những gì mà phía bị hại yêu cầu như vừa nêu là hoàn toàn hợp lý. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu nêu trên.

Bị cáo trình bày: số tiền mà bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường là quá lớn đối với khả năng của bị cáo, có những khoản chi phí bị hại yêu cầu là không hợp lý. Khi xảy ra sự việc, bị cáo đã tự nguyện khắc phục mọi hậu quả như chở bị hại đi bệnh viện, đi khám, thanh toán chi phí theo khả năng của bị cáo. Theo như bị cáo biết được thì hiện nay sức khỏe của bị hại đã bình thường, bị hại đã tự chạy xe đi lại, hoàn toàn không nghiêm trọng như những gì mà phía người đại diện của bị hại trình bày. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định của pháp luật để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bị cáo.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 279/2022/HSST ngày 21 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Tuyên bố bị cáo Clark Andrew S phạm tội “Vô ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Clark Andrew S phải nộp số tiền 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng vào Ngân sách Nhà nước.

Căn cứ Điều 125 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tuyên hủy bỏ biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với bị cáo Clark Andrew S ngay sau khi kết thúc phiên tòa nếu bị cáo Clark Andrew S không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” về một tội phạm khác.

Căn cứ khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 357; Điều 586 của Bộ luật Dân sự năm 2015, Buộc bị cáo Clark Andrew S phải bồi thường cho ông Sullivan Joshep D số tiền 441.427.008 (Bốn trăm bốn mươi mốt triệu bốn trăm hai mươi bảy nghìn không trăm linh tám) đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo, kháng nghị Bản án theo luật định.

- Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Clark Andrew S kháng cáo không đồng ý việc án sơ thẩm xử buộc bị cáo phải bồi thường cho ông Sullivan Joshep D với số tiền 441.427.008 đồng (bị cáo cho rằng thiệt hại xảy ra không đến số tiền 441.427.008 đồng) nên yêu cầu xét xử lại phần bồi thường thiệt hại và phần án phí. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo S vẫn giữ theo yêu cầu kháng cáo nêu trên.

- Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Sullivan Joshep D (người bị hại trong vụ án) kháng cáo cho rằng án sơ thẩm xử buộc bị cáo Clark Andrew S bồi thường cho ông số tiền 441.427.008 đồng là không đúng, ông kháng cáo yêu cầu buộc bị cáo S phải bồi thường thiệt hại cho ông với số tiền là 1.903.538.250 đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Trần Thị Thanh T đại diện theo ủy quyền của ông D cho rằng thời gian điều trị trong nước từ ngày 28/7/2020 đến ngày 11/7/2022 bằng 1.525.628.195 đồng, thời gian điều trị tại Singapore từ ngày 12/7/2022 cho đến nay bằng 810.319.321 đồng, và dự kiến ông D còn phải điều trị trong thời gian tới là 562.647.407 đồng, yêu cầu buộc bị cáo phải bồi thường.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị chỉ buộc bị cáo bồi thường cho ông D số tiền 233.519.447 đồng.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông D đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông D.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị xem xét tăng thêm một số khoản phải bồi thường cho ông D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Clark Andrew S cũng như đơn kháng cáo của ông Sullivan Joshep D được làm trong thời hạn luật định nên kháng cáo hợp lệ.

[2] Xét về nội dung vụ án thì thấy:

Án sơ thẩm tuyên bố bị cáo Clark Andrew S phạm tội “Vô ý gây thương tích”, xử phạt bị cáo S với số tiền 15.000.000 đồng sung công quỹ, phần này không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Đối với bị cáo Clark Andrew S kháng cáo không đồng ý bồi thường cho ông Sullivan Joshep D với số tiền 441.427.008 đồng và người bị hại cũng kháng cáo yêu cầu tăng phần bồi thường thiệt hại thì HĐXX xét thấy: bị cáo Clark Andrew S có hành vi điều khiển trái phép Flycam bay tại khu vực đông người, làm thiết bị bay Flycam đập vào mắt trái gây thương tích cho ông Sullivan Joshep D (theo kết quả giám định thì ông D bị tỷ lệ tổn thương là 34%), nên bị cáo S ngoài chịu trách nhiệm hình sự về tội “Vô ý gây thương tích”, còn phải chịu trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại cho người bị hại.

Theo bản kê của người bị hại (ông Sullivan Joshep D), có các khoản thiệt hại nhu:

+ Chi phí về việc cứu chữa gồm có 69 mục với số tiền là 215.400.078 đồng. Án sơ thẩm chấp nhận 25 mục kê với số tiền là 202.285.078 đồng; Không chấp nhận các mục kê còn lại với số tiền là 13.115.000 đồng gồm: tiền mua quạt máy 450.000đ, mua đồ dùng cá nhân 450.000đ, mua dụng cụ y tế 120.000đ; số còn lại các mục 16, 17, 19, 20, 22, 23, 24, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 37, 39, 41, 43, 45, 46, 48, 51, 52, 54, 56, 58,60, 62, 63, 65, 67, 68 là tiền Taxi đi khám và tái khám bằng 6.010.000 đồng; Mục 27 tiền thuốc tái khám 85.000đ; Mục 28 mua kính bảo vệ 6.000.000 đồng. Án sơ thẩm cho rằng các khoản này không có chứng từ nên không chấp nhận, nên không buộc bị cáo S phải bồi thường cho ông D.

HĐXX xét thấy các khoản như: chi mua quạt máy 450.000đ, mua đồ dùng cá nhân, mua kính bảo vệ 6.000.000 đồng là không phục vụ cho việc chữa trị nên án sơ thẩm không chấp nhận theo yêu cầu của ông D yêu cầu bồi thường các khoản trên là đúng. Nhưng đối với các khoản như: tiền xe đi khám và tái khám 6.215.000 đồng là có chi phí trong thực tế, án sơ thẩm không chấp nhận khoản chi phí này là không đúng, nên buộc bị cáo S phải bồi thường thêm cho ông D khoản thiệt hại này.

Đối với việc chi phí phần tiền ăn theo bản kê (mục B). Ông D kê bằng 29.201.000 đồng (17 mục), thì HĐXX xét thấy: có ngày ông D mua sữa và mua Yến từ 1.250.000đ đến 5.500.000đ, các khoản chi ăn uống này không hợp lý. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu về khoản chi ăn uống này, được xem xét trong phần khoản mất thu nhập của ông D là đúng, nên không chấp nhận phần kháng cáo của ông D yêu cầu xem xét lại về khoản tiền này.

Đối với khoản tiền mất thu nhập: theo bản kê của ông D thì có 04 khoản bằng 386.570.430d, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận 03 khoản như: từ ngày 07/10/2020 đến ngày 01/3/2021 nghỉ 14 ngày tính bằng 138USD/ngày tương đương 3.205.740đ/ngày x 14 ngày = 44.880.360đ; Từ ngày 01/3/2021 đến ngày 01/12/2021 nghỉ 18 ngày tính bằng 243USD/ngày tương đương 5.644.890đ/ngày x 18 ngày = 101.608.020d; Từ ngày 01/12/2021 đến ngày 16/6/2022 có nghỉ 09 ngày tính bằng 265USD/ngày tương đương 6.155.950đ/ngày x 09 ngày = 53.403.550đ. Tổng cộng 03 khoản trên bằng 201.891.930 đồng; Không chấp nhận dự kiến mất thu nhập đi Singapore điều trị khoảng 01 tháng bằng 184.678.500 đồng. Do ông D chưa đi Singgpore điều trị, nên tòa án ấp sơ thẩm không chấp nhận khoản tiền mất thu nhập dự kiến này là đúng.

Đối với phần yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần: ông D yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần bằng 200.000.000 đồng. Án sơ thẩm chỉ chấp nhận tính 25 tháng lương cơ sở bằng 37.250.000 đồng là đúng quy định của pháp luật, nên kháng cáo yêu cầu tăng phần bồi thường thiệt hại về tinh thần của của ông D không được chấp nhận.

Đối với phần kháng cáo của ông D yêu cầu bồi thường thiệt hại cho một người nghỉ việc để chăm sóc ông D trong thời gian điều trị bằng 59.485.000 đồng thì HĐXX xét thấy: thực tế thì có một người để chăm sóc ông D trong lúc ông D điều trị, theo bản kê thì có nhiều khoản không hợp lý, HĐXX chấp nhận khoản tiền ăn bằng 2.580.000 đồng, thu nhập bị mất của 02 tháng lương theo mức lương cơ sở bằng 1.490.000đ/tháng x 02 tháng = 2.980.000 đồng. Tổng cộng 02 khoản tiền trên bằng 5.560.000 đồng.

Như vậy, HĐXX chấp nhận theo yêu cầu của ông D buộc bị cáo Clark Andrew S phải bồi thường thêm cho ông D 02 khoản tiền nêu trên là 6.215.000đ + 5.560.000đ = 11.775.000. Cộng với số tiền 441.427.008 đồng theo như án sơ thẩm xử thì bị cáo S phải bồi thường thiệt hại cho ông D đến ngày 11/7/2022 bằng 453.202.008 đồng.

Đối với phần kháng cáo của ông D đòi bị cáo S bồi thường thiệt hại trong thời gian điều trị trong nước từ ngày 18/7/2020 đến ngày 11/7/2022 lên đến 1.525.628.195 đồng thì HĐXX chỉ chấp nhận bằng 453.202.008 đồng, phần còn lại không có cơ sở để chấp nhận.

Đối với phần kháng cáo của ông D yêu cầu buộc bị cáo S phải bồi thường thiệt hại thời gian ông điều trị tại Singapore từ ngày 12/7/2022 đến nay (12/12/2022) bằng 810.319.321 đồng, cũng như phần dự kiến điều trị tiếp bằng 562.647.407 đồng. HĐXX xét thấy: phần yêu cầu này của ông D (điều trị tại Singapore sau ngày 12/7/2022) chua được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét giải quyết, nên cấp phúc thẩm không được xem xét, nếu có yêu cầu của ông D thì tách ra giải quyết thành vụ án yêu cầu bồi thường thiệt hại sau ngày 12/7/2022 theo quy định pháp luật.

Đối với kháng cáo của bị cáo Clark Andrew S, kháng cáo không đồng ý bồi thường đến 441.427.008 đồng, mà chỉ đồng ý bồi thường 233.519.447 đồng, cũng như yêu cầu xem xét lại phần án phí thì HĐXX xét thấy: tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, ông D cung cấp được giấy tờ chứng minh mức thu nhập của ông bị mất, phù hợp với mức thiệt hại mà Tòa án cấp sơ thẩm xem xét, HĐXX chấp nhận thêm các khoản mà ông D chi hợp lý bằng 11.775.000 đồng, nên không chấp nhận theo kháng cáo của bị cáo S chỉ chấp nhận bồi thường cho ông D thời gian điều trị đến ngày 11/7/2022 chỉ có 233.519.447 đồng.

Do sửa án sơ thẩm, buộc bị cáo S phải bồi thường cho ông D đến 453.202.008 đồng, nên mức án phí dân sự bị cáo S phải nộp được tính lại là 22.128.000 đồng chứ không phải nộp 21.658.000 đồng nhu án sơ thẩm xử.

Bị cáo Clark Andrew S kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Ông Sullivan Joshep D không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Lời đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo S không phù hợp với nhận định trên nên không được chấp nhận.

Lời đề nghị của Luật sư bảo vệ quyền lợi cho ông D có một phần phù hợp với nhận định trên nên được ghi nhận.

Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định trên nên được ghi nhận.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Chấp nhận một phần kháng cáo của người bị hại Sullivan Joshep D. Sửa một phần bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại.

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Clark Andrew S.

- Phần bản án sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, p, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 , xử phạt bị cáo Clark Andrew S 15.000.000 đồng sung công quỹ nhà nước về tội “Vô ý gây thương tích”, phần này không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[2] Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 357, 586 Bộ luật dân sự năm 2015;

Tuyên xử:

Buộc bị cáo Clark Andrew S bồi thường thiệt hại cho ông Sullivan Joshep D thời gian điều trị từ ngày 18/7/2020 đến ngày 11/7/2022 với tổng số tiền là 453.202.008 đồng, được khấu trừ khoản tiền 16.000.000 đồng mà bị cáo S đã bồi thường cho ông D trước đó, số tiền còn lại bị cáo S phải bồi thường tiếp cho ông D là 437.202.008 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án nếu người phải thi hành án chưa trả số tiền trên, thì người phải thi hành án còn phải trả tiền lãi của số tiền gốc chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Tách phần điều trị của ông D điều trị tại Singapore thời gian từ ngày 12/7/2022 đến nay ra giải quyết thành vụ án kiện đòi bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật nếu ông D có yêu cầu.

[3] Về án phí:

- Bị cáo Clark Andrew S phải nộp 22.128.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm chứ không phải 21.658.000 đồng như án sơ thẩm xử.

- Bị cáo Clark Andrew S phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định còn lại của Bản án sơ thẩm đã xét xử không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án này là phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày 12/12/2022.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vô ý gây thương tích số 892/2022/HS-PT

Số hiệu:892/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về