Bản án về tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản số 94/2020/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

BẢN ÁN 94/2020/HSST NGÀY 20/11/2020 VỀ TỘI VÔ Ý GÂY THIỆT HẠI NGHIÊM TRỌNG ĐẾN TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 97/2020/HSST ngày 12 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn T, sinh năm: 1973, tại Bình Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: ấp Phú V, xã HH, huyện XM, huyện XM, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ văn hóa (trình độ học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hinh (chết) và bà Phạm Thị Lan (chết); Bị cáo là con út trong gia đình có 05 người con; Bị cáo có vợ là Đặng Thị Tuyết M, sinh năm: 1975 và có 03 con, lớn nhất sinh năm: 1995 và nhỏ nhất sinh năm: 1999.

- Tiền án, tiền sự: không Bị cáo tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại:

1/ Bà Nguyễn Thị C, sinh năm: 1990 (có mặt) Địa chỉ: ấp Phú H, xã HH, huyện XM, tỉnh BR – VT.

2/ Ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1986 (có mặt) Địa chỉ: ấp Phú H, xã HH, huyện XM, tỉnh BR – VT.

3/ Ông Tăng Hồng T, sinh năm: 1957 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp Phú V, xã HH, huyện XM, tỉnh BR – VT.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Đặng Thị Tuyết M, sinh năm: 1975 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 10, ấp Phú V, xã HH, huyện XM, tỉnh BR – VT.

* Người làm chứng:

1/ Ông Vũ Quang Đ, sinh năm: 1966 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 11, ấp Phú V, xã HH, huyện XM, tỉnh BR – VT.

2/ Ông Trần Đức H, sinh năm: 1999 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 03, ấp Phú T, xã HH, huyện XM, tỉnh BR – VT

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ ngày 10/5/2020, bị cáo Nguyễn T và vợ là bà Đặng Thị Tuyết M dọn dẹp các ngọn mía khô đã thu hoạch tại vườn nhà của vợ chồng bị cáo, thuộc ấp Phú V, xã HH, huyện XM. Trong quá trình dọn, bị cáo đốt các ngọn mía khô và có tưới nước xung quanh hàng ranh đất nhà của bị cáo với mục đích không cho đám cháy lan sang vườn của vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị C và vườn ông Tăng Hồng T ở cùng ấp. Đến khoảng 06 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi đốt xong vườn, bị cáo đã dùng vòi tưới nước các đám cháy rồi đi cuốc các gốc mía đã thu hoạch. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, bà M đi chợ, khi đi bà M có dặn bị cáo ở nhà canh đám khói còn sót lại để tưới dập lửa. Bị cáo cuốc gốc mía thêm một lúc rồi vào nhà mà không coi đám cháy.

Khi đi vào nhà, bị cáo thấy một đám khói xuất phát từ các các gốc cây gòn khô trong vườn của bị cáo và nghĩ đám khói không bốc cháy lan qua vườn nhà của vợ chồng ông T và ông T nên bị cáo vào nhà ăn cơm. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, bị cáo thấy khói tại cuối vườn của nhà và chạy ra thì thấy đám cháy đang cháy lan qua vườn của vợ chồng ông T và ông T. Bị cáo cùng mọi người tham gia dập đám cháy nhưng do đám cháy lớn và lan nhanh nên không thể dập tắt được.

Thiệt hai do vụ cháy gây ra vụ cháy bao gồm:

- Vườn ông Tăng Hồng T bị cháy: 800 nọc tiêu, 800 cây gòn, 75 cây mít, 25 ống nhựa phi 49, 05 cuốn ống tưới dẹp phi 27, 50 van nước phi 27.

- Vườn nhà vợ chồng ông T và bà C bị cháy: 6.000m2 mía, 10 cuốn ống sọc đen, 42 cuộn ống dẹp, 79 ống nhựa phi 49 giảm 24, 14 ống nhựa phi 27, 141 van phi 27, 34 ống chữ T phi 49, 13 chữ T phi 42, 09 ống nối phi 42 giảm 34, ống nhựa phi 42 dài 4m, 226m ống Hoa sen phi 49, 13 nối răng trong phi 49, 09 nối răng ngoài phi 34, 09 béc phun cánh đập, 09 ông Hoa sen phi 34, 12 van nhựa phi 34.

* Căn cứ vào kết luận định giá tài sản số 69/KL-HĐĐG ngày 28/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuyên Mộc kết luận, tại thời điểm xảy ra vụ cháy, tổng giá trị tài sản bị thiệt hại tại vườn của ông Tăng Hồng T là 285.609.000đ (hai trăm tám mươi lăm triệu, sáu trăm lẻ chín ngàn đồng), trong đó: 800 nọc tiêu có giá là 261.600.000đ; 800 cây gòn có giá là 13.520.000đ; 75 cây mít có giá 8.962.000đ; 25 ống nhựa phi 49 có giá là 640.000đ; 05 cuốn ống tưới dẹp phi 27 có giá là 470.000đ; 50 van nước phi 27 có giá 417.000đ.

* Căn cứ vào kết luận định giá tài sản số 70/KL-HĐĐG ngày 28/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuyên Mộc kết luận, tại thời điểm xảy ra vụ cháy, tổng giá trị tài sản bị thiệt hại tại vườn của vợ chồng ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị C là 66.514.400đ (sáu mươi sáu triệu, năm trăm mười bốn ngàn, bốn trăm đồng), trong đó: 6.000m2 mía lấy theo thời giá bồi thường là 43.200.000đ; 10 cuốn ống sọc đen lấy theo giá khảo sát là 8.167.000đ;

42 cuộn ống dẹp lấy theo thời giá bồi thường là 7.900.000đ; 79 ống nhựa phi 49 giảm 24, lấy theo giá khảo sát là 724.000đ; 14 ống nhựa phi 27 lấy theo giá khảo sát là 314.000đ; 141 van phi 27 lấy theo giá khảo sát là 1.900.000đ; 34 ống chữ T phi 49 lấy theo giá khảo sát là 210.000đ; 16 chữ T phi 49 ra 27, lấy theo giá khảo sát là 100.000đ; 13 chữ T phi 60, lấy theo giá khảo sát là 91.700đ; 13 chữ T phi 60 giảm 49, lấy theo giá khảo sát 91.700đ; 13 chữ T phi 42, lấy theo giá khảo sát là 65.000đ; 09 ống nối phi 42 giảm 34, lấy theo giá khảo sát là 29.000đ; ống nhựa phi 42 dài 4m, lấy theo giá khảo sát là 340.000đ; 226m ống Hoa sen phi 49, lấy theo giá khảo sát là 2.000.000đ; 13 nối răng trong phi 49, lấy theo giá khảo sát là 52.000đ; 13 nối răng ngoài phi 49, lấy theo giá khảo sát là 52.000đ; 09 nối răng ngoài phi 34, lấy theo giá khảo sát là 382.000đ; 09 béc phun cánh đập, lấy theo giá khảo sát là 570.000đ; 09 ông Hoa sen phi 34, lấy theo giá khảo sát là 400.000đ; 12 van nhựa phi 34, lấy theo giá khảo sát là 270.000đ.

Tại công văn số 314/PC09-Đ1 ngày 29/6/2020 của phòng kỹ thuật Công an tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, nhận định nguyên nhân vụ cháy như sau: khu vực xuất phát cháy đầu tiên là khu vực trồng mía (đã thu hoạch chỉ còn phần gốc) của bị cáo Tự, sau đó cháy sang khu vực rẫy trồng mía của vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị C rồi cháy lan sang rẫy trồng tiêu của ông Tăng Hồng T (Cháy Theo hướng từ Tây Nam sang Đông Bắc).

* Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị C yêu cầu bồi thường 80.000.000đ (tám mươi triệu đồng); ông Tăng Hồng T và bà Đặng Thị Thanh Thúy yêu cầu bồi thường 100.000.000đ (một trăm triệu đồng). Bị cáo đã bồi thường xong cho các bị hại, các bị hại không có yêu cầu gì thêm.

* Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc trình bày ý kiến luận tội:

+ Giữ nguyên quyết định truy tố tại bản Cáo trạng số 94/CT-VKS-XM ngày 05/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc đối với bị cáo Nguyễn T về tội “Vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản”;

+ Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 180; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 16 tháng đến 20 tháng cải tạo không giam giữ. Ngoài ra, do điều kiện kinh tế của bị cáo khó khăn, không có việc làm và thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn khấu trừ một phần thu nhập hàng tháng cho bị cáo.

+ Về trách nhiệm dân sự: đã giải quyết xong nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo không tranh luận và bào chữa bổ sung chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Người bị hại không có ý kiến tranh luận gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Qua xem xét toàn bộ hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan điều tra, viện kiểm sát đã tuân thủ đúng thủ tục tố tụng trong việc thu thập chứng cứ theo quy định tại các điều 88, 98, 105 Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người làm chứng, thể hiện:

Vào khoảng 06 giờ ngày 10/5/2020, bị cáo và vợ là bà Đặng Thị Tuyết M dọn dẹp các ngọn mía khô đã thu hoạch tại vườn nhà của vợ chồng bị cáo, thuộc ấp Phú V, xã HH, huyện Xuyên Mộc. Trong quá trình dọn, bị cáo đốt các ngọn mía khô, trước khi đốt và sau khi đốt, bị cáo có tưới nước xung quanh hàng ranh đất nhà của bị cáo với mục đích không cho đám cháy lan sang vườn của vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị C và vườn ông Tăng Hồng T ở cùng ấp. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, bà M đi chợ và có dặn bị cáo ở nhà canh đám khói còn sót lại để tưới dập lửa tuy nhiên bị cáo vào nhà luôn mà không trông coi đám cháy, đến khi bị cáo thấy thấy một đám khói xuất phát từ các các gốc cây gòn khô trong vườn của bị cáo nhưng bị cáo vẫn nghĩ đám khói không bốc cháy lan qua vườn nhà của vợ chồng ông T và ông T nên bị cáo vào nhà ăn cơm.

Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, bị cáo thấy khói tại cuối vườn của nhà và thấy đám cháy đang cháy lan qua vườn của vợ chồng ông T và ông T. Mặc dù, bị cáo cùng mọi người tham gia dậm đám cháy nhưng do đám cháy lớn và lan nhanh nên không thể dập tắt được.

Tổng thiệt hại do vụ cháy gây ra là 352.123.400đ, trong đó thiệt hại của vườn nhà vợ chồng ông T, bà C là 66.514.400đ (sáu mươi sáu triệu, năm trăm mười bốn ngàn, bốn trăm đồng) và thiệt hại của vườn nhà ông T là 285.609.000đ (hai trăm tám mươi lăm triệu, sáu trăm lẻ chín ngàn đồng).

Căn cứ vào công văn số 314/PC09-Đ1 ngày 29/6/2020 của phòng kỹ thuật Công an tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu thì điểm cháy được xác định là cháy theo hướng từ Tây Nam sang Đông Bắc, cụ thể: điểm cháy đầu tiên được xác định là khu vực trồng mía (đã thu hoạch chỉ còn phần gốc) của bị cáo Tự, sau đó cháy sang khu vực rẫy trồng mía của vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị C rồi cháy lan sang rẫy trồng tiêu của ông Tăng Hồng T.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 180 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi do bị cáo gây ra tuy ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Hành vi của phạm tội của bị cáo được xác định là lỗi vô ý vì quá tự tin nên gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của người khác. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện khắc phục hậu quả cho người bị hại và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu về mặt dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Giải quyết các vấn đề khác trong vụ án:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015, trong thời gia chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Xét, bị cáo không có công việc ổn định; thu nhập của bị cáo chủ yếu phụ thuộc vào việc làm nông; điều kiện kinh tế của bị cáo khó khăn nên miễn khấu trừ một phần thu nhập hàng tháng cho bị cáo.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn T phạm tội “Vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 180; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn T 16 (mười sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã HH, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu nhận được Quyết định thi hành án và Bản án. Miễn khấu trừ một phần thu nhập hàng tháng cho bị cáo.

Giao bị cáo Nguyễn T cho Ủy ban nhân dân xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu giám sát giáo dục. Trường hợp bị cáo Nguyễn T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 Luật thi hành án hình sự.

4/ Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết theo quy định, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử phúc thẩm./.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

430
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản số 94/2020/HSST

Số hiệu:94/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về