TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TQ, TỈNH TQ
BẢN ÁN 138/2023/HS-ST NGÀY 29/12/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH XUẤT CẢNH
Ngày 29 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố TQ, tỉnh TQ, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 124/2023/TLST-HS, ngày 23/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/QĐXXST-HS ngày 14/12/2023, đối với bị cáo:
Vương Thị M, sinh ngày 24/06/1993;
Nơi cư trú: Thôn 17, xã Kim P, thành phố T, tỉnh TQ; Dân tộc: Cao lan; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không;Họ và tên cha: Dương Văn S (đã chết); Họ và tên mẹ: Vương Thị Th, sinh năm 1973; Họ và tên chồng: Trần Lê Th, sinh năm 1990; Có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2016; Anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là thứ nhất;
- Tiền án: Không;
- Tiền sự: Ngày 02/11/2020 bị Trưởng Công an thành phố TQ xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền 3.000.000 đồng) về hành vi qua lại biên giới Quốc gia mà không làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định.
- Nhân thân: Ngày 21/01/2023 bị Đồn trưởng Đồn Biên phòng Cửa khẩu Lý Vạn, tỉnh Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền 3.000.000 đồng) về hành vi Qua lại biên giới Quốc gia mà không làm thủ tục nhập cảnh theo quy định.
- Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
(Có mặt tại phiên tòa).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Anh Trần Lê Th, sinh năm 1990;
Nơi cư trú: Thôn 17, xã Kim P, thành phố TQ, tỉnh TQ. (Có mặt tại phiên tòa)
Người làm chứng:
1. Chị Lý Thị H, sinh năm 1978;
Nơi cư trú: Thôn 17, xã Kim P, thành phố TQ, tỉnh TQ. (Vắng mặt tại phiên tòa)
2. Anh Lý Nguyên Tr, sinh năm 2003 Nơi cư trú: Thôn 17, xã Kim P, thành phố TQ, tỉnh TQ. (Vắng mặt tại phiên tòa)
3. Chị Âu Thị M, sinh năm 1984.
Nơi cư trú: Thôn 17, xã Kim P, thành phố TQ, tỉnh TQ. (Vắng mặt tại phiên tòa)
4. Anh Lý Đức L, sinh năm 1972 Nơi cư trú: Thôn 17, xã Kim P, thành phố TQ, tỉnh TQ (Vắng mặt tại phiên tòa)
5. Chị Đỗ Thị S, sinh năm 1974.
Nơi cư trú: Thôn 17, xã Kim P, thành phố TQ, tỉnh TQ. (Vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng giữa tháng 11/2020, Vương Thị M, cư trú tại thôn 17, xã Kim P, thành phố TQ, tỉnh TQ (đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi qua lại biên giới Quốc gia mà không làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định) nhận được điện thoại qua Zalo của Trần Lê Th (chồng M) đang làm thuê tại xưởng cá đông lạnh ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc bảo M sang làm cùng, M đồng ý. Sau đó, Th liên hệ nhờ 01 người đàn ông tên H (không xác định họ tên và địa chỉ) đưa M xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc, H đồng ý, nói chi phí là 2.800 NDT/01 người và bảo Th thông báo với M ngày 26/11/2020 đến Bến xe khách của tỉnh Cao Bằng sẽ có người đón, đưa xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc. Sau đó Th điện thoại trao đổi với M về việc đi Trung Quốc làm thuê.
Khoảng 09 giờ, ngày 26/11/2020, M đón xe khách đi thành phố Thái Nguyên và thành phố Cao Bằng. Khoảng 17 giờ cùng ngày đến Bến xe khách Cao Bằng, M điện thoại cho Th thông báo về việc đã đến Bến xe, Th bảo M chờ sẽ có người đón và Th điện thoại, Zalo gửi ảnh của M cho H để H bố trí người đón. Sau đó có 01 người đàn ông (không xác định tên, tuổi và địa chỉ) đến hỏi và cho M xem ảnh rồi người đàn ông đưa M lên xe ô tô 16 chỗ đi về phía khu vực biên giới. Khi đến khu vực chân đồi, M được 01 người đàn ông (không xác định họ tên và địa chỉ) dẫn đi bộ theo đường mòn vượt biên giới sang đất Trung Quốc. Khoảng 03 giờ ngày 27/11/2020, M được đưa lên 01 xe ô tô (loại 09 chỗ ngồi) và được đưa đến chỗ Th làm việc, M trả cho lái xe 6.000.000 đồng và Th trả cho lái xe 1.000 NDT (do M trả thiếu tiền). Ngày 29/11/2020, M ký hợp đồng làm việc với xưởng cá, với công việc cân cá cho vào lon, ti ền công được khoảng 6.000 đến 7.000 NDT/01 tháng.
Ngày 18/01/2023, M cùng Th và một số người làm thuê ở xưởng cá nhập cảnh trái phép về Việt Nam thì bị Đồn Biên phòng Cửa khẩu Lý Vạn, tỉnh Cao Bằng phát hiện và xử lý.
Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Vương Thị M khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như: Lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản Cáo trạng số 58/CT-VKSTQ-P2 ngày 21/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân nhân tỉnh TQ đã truy tố bị cáo Vương Thị M về tội: “Vi phạm quy định về xuất cảnh” theo quy định tại Điều 347 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã nêu trong Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 347; điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật Hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Vương Thị M phạm tội: “Vi phạm quy định về xuất cảnh” Xử phạt bị cáo Vương Thị M từ 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) đến 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
- Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên nghĩa vụ chịu án phí của bị cáo và tuyên quyền kháng cáo của bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo không kêu oan, nội dung khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên và người làm chứng, không có tình tiết mới, bị cáo không có khiếu nại gì về kết luận điều tra, nhất trí với nội dung cáo trạng và luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TQ, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.
Bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo thấy ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức hình phạt thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh TQ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội và năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Ngày 27/11/2020, tại khu vực biên giới thuộc tỉnh Cao Bằng, Vương Thị M (đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Qua lại biên giới Quốc gia mà không làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định) có hành vi xuất cảnh trái phép đi Trung Quốc lao động trái phép.
Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, là công dân Việt Nam đi sang Trung Quốc và về Việt Nam đều không có giấy tờ xuất cảnh, nhập cảnh là vi phạm nguyên tắc xuất nhập cảnh quy định tại Điều 3 Luật xuất, nhập cảnh. Trước đó ngày 02/11/2020 Vương Thị M bị Trưởng Công an thành phố TQ xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền 3.000.000 đồng) về hành vi Qua lại biên giới Quốc gia mà không làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định. Tại điều 347 Bộ luật Hình sự quy định: “Người nào xuất cảnh, nhập cảnh trái phép hoặc ở lại Việt Nam trái phép, đã bị xử lý hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” Như vậy hành vi của Vương Thị M ra khỏi Việt Nam (sang Trung Quốc) không có giấy tờ xuất cảnh bị coi là tội phạm.
Đến ngày 18/01/2023, M nhập cảnh trái phép về Việt Nam thì bị Đồn Biên phòng Cửa khẩu Lý Vạn, tỉnh Cao Bằng phát hiện; Ngày 21/01/2023 bị Đồn trưởng Đồn biên phòng Cửa khẩu Lý Vạn xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền 3.000.000 đồng) về hành vi qua lại Biên giới quốc gia mà không làm thủ tục nhập cảnh theo quy định.
Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ truy tố bị cáo Vương Thị M về tội “Vi phạm quy định về xuất cảnh” theo quy định tại Điều 347 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về nhân thân của người phạm tội: Do hoàn cảnh khó khăn muốn sang Trung Quốc để tìm việc làm trong khi cửa khẩu Trung Quốc đóng cửa vì bệnh dịch Covid, Vương Thị M đã xuất cảnh sang Trung Quốc mà không làm thủ tục xuất cảnh theo quy định của pháp luật. Do tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, bản thân bị cáo là người lao động thuần túy xuất cảnh ra nước ngoài chỉ nhằm mục đích nuôi sống bản thân và gia đình, có nơi cư trú rõ ràng, hiện đang nuôi con nhỏ nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà xử phạt bị cáo bằng hình phạt tiền cũng đủ cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần đấu tranh phòng chống, phòng ngừa tội phạm nói chung.
[4] Vật chứng: Trong quá trình giải quyết vụ án bị cáo không bị thu giữ bất kỳ vật chứng hay tài sản gì nên không đặt vấn đề xem xét.
[5] Đối với Trần Lê Th có hành vi tổ chức đưa Vương Thị M (vợ Th) trốn sang Trung Quốc để lao động trái phép vào ngày 26/11/2020, hành vi tuy có dấu hiệu tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể không phải là tội phạm nên không đề cập xử lý.
Đối với người đàn ông tên H (giúp M xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc ngày 26/11/2020) do không có đủ thông tin và những người đàn ông (đưa M xuất cảnh trái phép vào ngày 26/11/2020 và ngày 27/11/2020) không xác định họ tên, địa chỉ nên không có căn cứ xem xét xử lý.
[6] Về án phí của vụ án: Bị cáo Vương Thị M phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ Điều 347, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật Hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Vương Thị M phạm tội: “Vi phạm quy định về xuất cảnh”;
- Xử phạt bị cáo Vương Thị M 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng).
2. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Bị cáo Vương Thị M phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (29/12/2023).
Bản án về tội vi phạm quy định xuất cảnh số 138/2023/HS-ST
Số hiệu: | 138/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về