Bản án về tội vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh số 95/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 95/2023/HS-ST NGÀY 15/05/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH

Trong các ngày 10 và 15 tháng 5 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 351/2022/TLST-HS, ngày 16 tháng 12 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2023/QĐXXST-HS, ngày 06 tháng 4 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 12/2023/HSST-QĐ, ngày 19 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Phan Đức H, sinh năm 1962, tại tỉnh Nghệ An. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số ABC, đường B M T, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (thực tế không còn cư trú tại địa phương); nơi ở: Nhà số XYZ, đường M L, phường B H H A, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Bác sỹ; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Hữu K và bà Nguyễn Thị N; có vợ tên Phạm Thị L (chết) và 03 con, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 06/02/2015, bị Công an phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép” (đã chấp hành xong quyết định ngày 21/9/2015, được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính); bị tạm giữ (trong trường hợp khẩn cấp) ngày 07-7-2021, tạm giam ngày 16-7-2021 “có mặt”.

*Bị hại: Chị Nguyễn Thị Lệ T, sinh năm 1991 (đã chết);

- Các người đại diện hợp pháp cho chị T:

1. Bà Từ Thị Đ, sinh năm 1960. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Nhà số AAA, ấp T, xã P H, huyện T C, tỉnh Trà Vinh (mẹ ruột chị T) “có mặt”;

2. Anh Nguyễn Văn Á, sinh năm 1988. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Ấp X C, xã T X, huyện Ch T A, tỉnh Hậu Giang (chồng chị T) “có mặt”.

Các người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Ái: Ông Nguyễn Quang V, Trần Ngọc H và bà Tô Thị Bích L, Luật sư Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn ĐV, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Đức H là Bác sỹ-Thạc sĩ Y học và có Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số: 0000916/ĐNO-CCHN do Sở Y tế tỉnh, Đắk Nông cấp ngày 01/8/2014 có nội dung, “Bằng cấp chuyên môn: Bác sỹ chuyên khoa định hướng Phẫu thuật thẩm mỹ” và “Phạm vi hoạt động CM: Khám và Phẫu thuật thẩm mỹ”. Tuy nơi ở của Hồng tại nhà số XYZ, đường M L, phường B H H A, quận B T chưa được cấp giấy phép hoạt động Phòng khám chuyên khoa Thẩm mỹ, nhưng H lại mua sắm vật tư, trang thiết bị y tế về hành nghề phẫu thuật thẩm mỹ. Theo đó vào khoảng 08 giờ ngày 03/7/2021, do có hẹn trước nên chị Nguyễn Thị Lệ T đến nhà của Phan Đức H tại số XYZ, đường M L, phường B H H A, quận B T để thực hiện phẫu thuật thẩm mỹ vùng ngực và âm đạo (chi phí ca phẫu thuật là 47.000.000 đồng và đã đưa trước 12.000.000 đồng). Sau khi chị T vệ sinh cơ thể theo yêu cầu xong, H cho chị T uống 02 viên thuốc Seduxen, 01 viên Clopheramine, truyền dịch vào tay trái, đo huyết áp và nhịp tim. Sau đó, H đưa chị T vào phòng phẫu thuật (lầu 1) rồi dùng viết định vị trước các vị trí cần phẫu thuật trên ngực trái và phải của chị T xong, H tiếp tục tiêm 02 ống thuốc gây tê cục bộ hiệu Lidocain 2% ống 2ml dưới da vùng vú của chị T (ngực phải trước, ngực trái sau). Khoảng 10 phút sau, H dùng dao phẫu thuật tách da dưới vùng vú bên phải thì chị T kêu đau nên H tiêm thêm thuốc Lidocain có pha 01 giọt Adrenaline tương đương 0,01ml (gây mê tăng cường) và tính cho đến khi mở được khoang vú bên phải thì H đã tiêm khoảng 10 ống thuốc gây mê tăng cường vào vú phải của chị T rồi tiếp tục dùng dao phẫu thuật mở khoang vú bên trái thì chị T có biểu hiện suy hô hấp, tím tái trên khuôn mặt, mạch và huyết áp thể hiện trên máy đo điện tử là 70/40. Thấy vậy, H nghĩ chị T bị sốc thuốc nên đã dừng phẫu thuật, tiến hành hồi sức hỗ trợ tích cực bằng cách cho chị T thở bình oxy, nhưng chị T bắt đầu co giật, tăng tiết đờm nên H dùng máy hút đờm, đặt ống nội khí quản, bóp bóng thở và truyền 02 chai nước biển cho chị T. Lúc này, do H làm rớt đồ vật xuống nền nhà tạo ra tiếng động lớn làm cho con ruột là chị Phan Thị Hồng Hải đang ngủ trên lầu 2 thức giấc đi xuống phòng phẫu thuật xem thì H gọi vào hỗ trợ bóp bóng thở oxy cho chị T; còn H tiếp tục pha 01 ống Adrenaline vào đường truyền nước biển và tiêm trực tiếp 02 ống Adrenaline vào vùng tim của chị T, nhưng đến 15 giờ cùng ngày thì chị T tử vong. Sau đó, H liên hệ với mẹ ruột của chị T thông báo đến đóng tiền viện phí, nhưng lúc gia đình của chị T gọi lại thì H không nghe máy. Khi xác định được quê của chị T ở tỉnh Trà Vinh nên H mượn xe ôtô biển số 51H-814.03 của con ruột là anh Phan Đức H1 và trực tiếp điều khiển xe, còn chị Hải đi theo xe chở thi thể chị T về tỉnh Trà Vinh để bàn giao cho gia đình an táng, nhưng không có nói gì cho anh H1 biết về việc làm của H. Khi xe H đến địa phận tỉnh Trà Vinh, do không liên lạc được với gia đình của chị T thì lo sợ tử thi bị hoại tử nên H đưa thi thể chị T đến Trại hòm Hai Viên, ấp Giồng Dầu, xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh nói trước nếu như khoảng 02 giờ nữa mà không tìm được nhà gia đình chị T thì quay lại nhờ mai táng và lưu giữ thi thể chị T. Nghe vậy, anh Lưu Hữu D là chủ Trại hòm nghi ngờ nên trình báo sự việc này cho Công an huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh biết; đến khoảng 09 giờ ngày 05/7/2021, H quay lại thì Cơ quan điều tra-Công an huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh đến làm việc với H rồi thông báo cho Cơ quan điều tra-Công an quận Bình Tân biết để thụ lý giải quyết theo thẩm quyền. Khi đó, Cơ quan điều tra-Công an quận Bình Tân vừa liền phân công điều tra viên xuống huyện Cầu Kè, vừa tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám xét khẩn cấp nơi làm việc của H tại số XYZ, đường Mã Lò, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân để thu giữ vật chứng có liên quan trong quá trình phẫu thuật thẩm mỹ chị T và thực hiện các bước thủ tục tố tụng tiếp theo.

1. Tại Bản kết luận giám định pháp y về mô bệnh học số: 54/21/MBH, ngày 12/7/2021 của Viện Pháp y Quốc gia-Phân viện tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận chị Nguyễn Thị Lệ T như sau:

- Sung huyết các tạng.

- Thận: Lồng ống thận chứa đầy trụ hồng cầu.

- Cơ: Mô kẽ cơ vân phù, tụ máu trong mô liên kết mỡ sợi.

- Tim: Thiểu dưỡng cơ tim cấp.

- Phổi: Sung huyết và phù phổi cấp.

- Một số tế bào của các cơ quan đang trong giai đoạn hoại tử.

2. Tại Bản kết luận giám định Pháp y về hóa pháp số: 263/266/337/21/ĐC, ngày 15/7/2021 của Phân Viện Pháp y Quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận trong mẫu phủ tạng vụ Nguyễn Thị Lệ T, sinh năm 1991 do Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an quận Bình Tân-Thành phố Hồ Chí Minh gửi tới giám định ngày 06/7/2021 như sau:

- Có tìm thấy Lidocain.

- Không tìm thấy các chất độc khác nêu trên.

3. Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 426/KLGĐ, ngày 16/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Trà Vinh, kết luận chị Nguyễn Thị Lệ T như sau:

- Dấu hiệu chính qua giám định:

+ Toàn thân tử thi trương, hoại tử nhiều nơi.

+ Rách da cơ dưới vú 2 bên; xung quanh vết rách có vết bầm tụ máu.

+ Tụ máu dưới da và cơ dưới vú phải, da cơ lóc (bóc tách) khỏi xương sường, xương ức.

+ Phổi hai bên phù sưng huyết, xuất huyết; hệ thống khí phế quản trong lòng tăng tiết, sung huyết, xuất huyết.

+ Tim: Cơ tim nhão, mặt sau 2 tâm thất sung huyết, xuất huyết; buồng tim chứa ít máu không đông.

+ Kết quả giám định pháp y về mô bệnh học: Thiểu dưỡng cơ tim cấp, sung huyết và phù phổi cấp, các cơ quan khác sung huyết, hoại tử.

+ Kết quả giám định pháp y về hóa pháp: Có tìm thấy Lidocain trong mẫu phủ tạng.

- Nguyên nhân chết: Qua giám định tử thi Nguyễn Thị Lệ T, căn cứ vào tổn thương trên đại thể, vi thể, độc chất chúng tôi đưa đến kết luận: Nguyên nhân chính dẫn đến Nguyễn Thị Lệ T tử vong là do suy tim cấp, suy hô hấp trên cơ địa có Lidocain.

4. Tại Công văn số: 1060/TTra, ngày 21/10/2021 của Thanh tra - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh và Công văn số: 133/SYT-NVD, ngày 13/10/2021 của Phòng Nghiệp vụ Dược- Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh về trả lời công dụng các loại thuốc thu giữ và quy trình phẫu thuật thẩm mỹ nâng ngực như sau:

- Clorphenamin: loại thuốc kháng histamin.

- Điều trị triệu chứng: Viêm mũi dị ứng mùa và quanh năm, mày đay,… hoặc điều trị sốc phản vệ (điều trị bổ sung).

- Diazepam (tên thương mại: Seduxen): loại thuốc an thần, giải lo âu, gây ngủ.

- Diazepam được sử dụng trong những trạng thái lo âu, kích động, mất ngủ.

Trong trường hợp trầm cảm có kèm trạng thái lo âu, kích động, mất ngủ, có thể dùng diazepam cùng với các thuốc chống trầm cảm hoặc sử dụng để tiền mê trước khi phẫu thuật.

- Gentamicin: loại thuốc kháng sinh nhóm aminoglycosid.

- Gentamicin thường được dùng phối hợp với các kháng sinh khác (beta-lac tam) để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn nặng toàn thân.

- Midazolam (tên thương mại: Paciflam): loại thuốc an thần nhóm benzodia zepin.

- Midazolam được sử dụng gây mê: Tiền mê trong gây mê theo đường thở hoặc để gây ngủ trong gây mê phối hợp hoặc để duy trì mê.

- Lidocain: loại thuốc tê, thuốc chống loạn nhịp nhóm 1B.

Gây tê tại chỗ niêm mạc trước khi thăm khám, nội soi, đặt thiết bị kỹ thuật, hoặc tiến hành các thủ thuật khác và làm giảm triệu chứng đau trong nhiều bệnh. Gây tê từng lớp và các kỹ thuật gây tê phong bế thần kinh bao gồm gây tê thần kinh ngoại vi, gây tê hạch giao cảm, gây tê ngoài màng cứng, gây tê khoang cùng và gây tê tủy sống.

- Adrenaline: loại thuốc kích thích giao cảm, chất chủ vận trên receptor alpha/beta adrenergic, thuốc chống phản vệ, thuốc hỗ trợ cho thuốc gây tê, thuốc giãn phế quản, thuốc chống sung huyết, thuốc co mạch.

Việc chỉ định và sử dụng adrenalin phải do thầy thuốc có kinh nghiệm thực hiện.

Chỉ định trong hồi sức tim phổi, cấp cứu choáng phản vệ và choáng dạng phản vệ (có giãn mạch hệ thống và cung lượng tim thấp), cấp cứu ngừng tim. Cơn hen ác tính (phối hợp với các thuốc khác như glucocorticoid, salbutamol). Glôcôm góc mở tiên phát. Dùng tại chỗ để ngăn ngừa chảy máu bề mặt da và niêm mạc mắt, mũi, mồm, họng hầu trong khi phẫu thuật. Phối hợp với thuốc gây tê tại chỗ và gây tê tủy sống để làm giảm hấp thu toàn thân và kéo dài thời gian tác dụng.

- Lignospan Standard: Lindocain + Adrenalin.

Chỉ định: gây tê tại chỗ.

- Sodium Clorid: Cung cấp chất điện giải.

Chỉ định bổ sung natri clorid và nước trong trường hợp mất nước.

- Povidone iodine: loại thuốc sát khuẩn.

Khử khuẩn và sát khuẩn các vết thương ô nhiễm và da, niêm mạc trước khi phẫu thuật hoặc lau rửa các dụng cụ y tế trước khi tiệt khuẩn.

5. Tại Phiếu chuyển số: 300/PC-NVY, ngày 18/10/2021 của Phòng Nghiệp vụ Y - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh về việc “Trả lời Công văn số: 1021/Ttra của Thanh tra Sở” với nội dung: Ông Phan Đức H vi phạm quy tắc nghề nghiệp gây chết người tại số XYZ, đường Mã Lò, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân. Qua nghiên cứu nội dung công văn và hồ sơ của Thanh tra Sở cung cấp, Phòng Nghiệp vụ Y có ý kiến như sau:

- Tại số XYZ, đường Mã Lò, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân, Sở Y tế chưa cấp giấy phép hoạt động, phê duyệt quy trình kỹ thuật và danh mục kỹ thuật cho bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào. Vì vậy, địa điểm này không phải là cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn thành phố được quy định của khoản 7 Điều 2 Luật Khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở khám bệnh chữa bệnh là cơ sở cố định hoặc lưu động đã được cấp phép hoạt động.

- Ông Phan Đức H chưa được Sở Y tế phê duyệt cho phép thực hiện kỹ thuật liên quan đến chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ tại bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Việc ông Phan Đức H thực hiện khám bệnh, chữa bệnh và thực hiện các kỹ thuật trong khám chữa bệnh tại số XYZ, đường Mã Lò, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân là trái pháp luật bởi do: Theo khoản 2 Điều 6 Luật Khám bệnh, chữa bệnh quy định hành vi bị cấm “Khám bệnh, chữa bệnh mà không có giấy phép hoạt động”.

- Theo khoản 1 Điều 74 Luật Khám bệnh chữa bệnh quy định: Trường hợp có yêu cầu giải quyết tranh chấp về khám bệnh, chữa bệnh khi xảy tai biến đối với người bệnh thì thành lập hội đồng chuyên môn để xác định có hay không có sai sót chuyên môn kỹ thuật, đề nghị Thanh tra Sở Y tế làm rõ sự vụ có khởi tố tranh chấp hay không, khi đó Nghiệp vụ Y cần cung cấp các văn bản, hồ sơ bệnh án, quy trình kỹ thuật của cơ sở để trình Hội đồng chuyên môn Sở Y tế xem xét trả lời các nội dung liên quan yêu cầu của Cơ quan điều tra-Công an quận Bình Tân.

- Về việc kiểm tra hồ sơ cấp phép hoạt động và phê duyệt danh mục kỹ thuật ghi nhận: Sở Y tế có tiếp nhận hồ sơ số 572100337 về việc đề nghị cấp giấy phép hoạt động và phê duyệt danh mục kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh, do ông Phan Đức H là người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật, tại số 190, đường Nguyễn Văn Thủ, phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; hồ sơ chưa cấp giấy phép hoạt động.

6. Tại Phiếu chuyển số: 158/PC-QLDVYT, ngày 19/10/2021 của Phòng Quản lý Dịch vụ Y tế - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh thì, qua xem xét hồ sơ, Phòng Quản lý Dịch vụ Y tế có ý kiến như sau: Hiện tại, Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh chưa nhận được Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép hoạt động khám bệnh, chữa bệnh của Phòng khám chuyên khoa Thẩm mỹ hoặc Văn bản thông báo đủ điều kiện Cơ sở dịch vụ thẩm mỹ nào tại số XYZ, đường Mã Lò, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

Một phòng khám chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ cần đảm bảo các điều kiện cơ bản sau đây:

- Theo quy định tại khoản 7 Điều 2; khoản 2 Điều 6; khoản 4 Điều 74 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 quy định: “Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh là cơ sở cố định hoặc lưu động đã được cấp giấy phép hoạt động và cung cấp dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh”; “Khám bệnh, chữa bệnh không có chứng chỉ hành nghề hoặc đang trong thời gian bị đình chỉ hành nghề, cung cấp dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh mà không có giấy phép hoạt động hoặc đang trong thời gian bị đình chỉ hoạt động”;“Trường hợp vụ việc liên quan đến tai biến trong khám bệnh, chữa bệnh được giải quyết theo thủ tục tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng có thể đề nghị cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về y tế thành lập hội đồng chuyên môn để xác định có hay không có sai sót chuyên môn kỹ thuật”. Ngoài ra còn phải đúng theo quy định tại Điều 26 Nghị định số 109/2016/NĐ-CP, ngày 01/7/2016 về “Cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh” và khoản 8 Điều 11 Nghị định 155/2018/NĐ-CP ngày 12/11/2018 về việc “Sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế” của Chính phủ về “Điều kiện cấp giấy phép hoạt động đối với phòng khám chuyên khoa; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, nhân sự”. Thông tư số: 41/2011/TT-BYT, ngày 14/11/2011 về việc “Hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh”, Thông tư số: 41/2015/TT-BYT “Hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh” và Thông tư số: 41/2017/TT-BYT, ngày 09/11/2017 về việc “Bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành, liên tịch ban hành”. Theo Thông tư số: 43/2013/TT-BYT, ngày 11/12/2013 quy định “Chi tiết phân tuyến chuyên môn kỹ thuật đối với hệ thống cơ sở khám bệnh, chữa bệnh” của Bộ Y tế.

7. Tại Công văn số  3098/BVĐHYD-KHĐT, ngày 08/11/2021 của Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh thì ngày 15/4/2011, Bệnh viện đã cấp cho ông Phan Đức H, sinh năm 1962: Giấy chứng nhận số 12/GCN-BVĐHYD vì đã tham dự lớp tập huấn “Căn bản về hút mỡ thẩm mỹ”, tổ chức ngày 15/4/2011, tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và ngày 16/7/2011, đã cấp Giấy chứng nhận số 24/GCN-BVĐHYD vì đã tham dự lớp tập huấn “Căn bản về nâng ngực thẩm mỹ”, tổ chức ngày 16/7/2011, tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.

Lớp tập huấn “Căn bản về nâng ngực thẩm mỹ” do Bệnh viện phối hợp với Bộ môn Tạo hình-Thẩm mỹ, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức thực hiện, nội dung tập huấn gồm: lý thuyết và thực hành trên thi thể. Kết thúc lớp học, học viên được cấp giấy chứng nhận đã tham gia tập huấn. Giấy chứng nhận này không có giá trị chứng nhận học viên được trực tiếp thực hiện phẫu thuật nâng ngực.

8. Tại Công văn số 50/TTra, ngày 13/01/2022 của Thanh tra-Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh giải thích liều lượng thuốc Lidocain mà Phan Đức H sử dụng khi tiến hành phẫu thuật nâng ngực cho chị Nguyễn Thị Lệ T như sau:

8.1. Theo chuyên luận Lidocain trong Dược thư quốc gia Việt Nam năm 2018:

- Chỉ định: Gây tê tại chỗ niêm mạc trước khi thăm khám, nội soi, đặt thiết bị kỹ thuật, hoặc tiến hành các thủ thuật khác và để làm giảm triệu chứng đau trong nhiều bệnh.

- Liều lượng và cách dùng:

+ Liều khuyến cáo là để dùng cho một người trung bình; cần hiệu chỉnh liều theo từng cá nhân, dựa trên tuổi, thể trạng và tình trạng cơ thể, và dự đoán tốc độ hấp thu toàn thân từ chỗ tiêm.

+ Gây tê từng lớp: Tiêm trực tiếp vào mô thuốc tiêm lidocain hydroclorid (0,5-1%); khi không pha thêm adrenalin: Liều lidocain tới 4,5mg/kg; khi có pha thêm adrenalin: Có thể tăng liều này thêm một phần ba (7mg/kg).

+ Gây tê phong bế vùng: Tiêm dưới da dung dịch lidocain hydroclorid với cùng nồng độ và liều lượng như gây tê từng lớp.

Do đó, chưa có cơ sở để xác định việc sử dụng lidocain của Phan Đức H có quá liều hay không.

8.2. Việc ông Phan Đức H sử dụng thuốc tê để thực hiện “phẫu thuật thẩm mỹ nâng ngực và âm đạo” tại số XYZ, đường Mã Lò, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân thì theo Thông tư số: 50/2014/TT-BYT, ngày 26/12/2014 của Bộ Y tế quy định việc phân loại phẫu thuật, thủ thuật và định mức nhân lực trong từng ca phẫu thuật, thủ thuật như sau:

- Phẫu thuật nâng vú bằng túi độn ngực (kỹ thuật số 470), là phẫu thuật loại I, khá phức tạp về bệnh lý, nguy hiểm đến tính mạng người bệnh, đòi hỏi người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, phần lớn được thực hiện ở các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến trung ương và tuyến tỉnh. Yêu cầu phải có phương tiện, dụng cụ, trang thiết bị y tế chuyên dụng. Yêu cầu có số người tham gia phẫu thuật, thủ thuật theo quy định gồm:

 1 Phẫu thuật viên chính (PTV), 3 PTV phụ, 1 gây mê chính, 1 phụ gây mê; 1 giúp việc; thời gian thực hiện kỹ thuật trung bình từ 2 đến 3 giờ hoặc lâu hơn.

- Phẫu thuật thu nhỏ âm đạo (kỹ thuật số 486), là phẫu thuật loại II, phẫu thuật này phần lớn được thực hiện ở các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến trung ương, tuyến tỉnh và một số cơ sở tuyến huyện, mức độ nguy hiểm đến tính mạng người bệnh ít hơn loại I; yêu cầu phương tiện, dụng cụ, trang thiết bị y tế thông dụng. Yêu cầu có số người tham gia phẫu thuật: 01 Phẫu thuật viên chính, 3 PTV phụ, 1 gây mê chính, 1 giúp việc; Thời gian thực hiện kỹ thuật trung bình từ 1 đến 3 giờ hoặc lâu hơn.

Với quy định nêu trên, “Phẫu thuật thẩm mỹ nâng ngực và âm đạo” phải được thực hiện tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến trung ương, tuyến tỉnh, có đội ngũ chuyên môn theo quy định, có phòng mổ, có phương tiện, trang thiết bị, có quy trình phẫu thuật…để thực hiện phẫu thuật và đảm bảo an toàn cho người bệnh. Tại địa điểm số XYZ, đường Mã Lò, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân, không có bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào. Việc Phan Đức H thực hiện tiêm thuốc, hay phẫu thuật cho người bệnh tại địa chỉ này là không đúng quy định”.

9. Tại Công văn số: 17/PC09, ngày 02/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Trà Vinh giải thích Kết luận giám định pháp y số: 426/KLGĐ, ngày 16/7/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Trà Vinh, như sau:

- Nguyên nhân chính dẫn đến chị Nguyễn Thị Lệ T tử vong là do suy tim cấp, suy hô hấp cấp có khả năng là do Lindocain gây nên.

- Lidocain có thể gây sốc phản vệ tùy thuộc vào cơ địa của từng người và phụ thuộc vào liều lượng.

Tại Cơ quan điều tra, H khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên và có giấy chứng nhận khám, phẫu thuật thẩm mỹ nhưng không có giấy phép hoạt động tại nơi hành nghề; không có nhân viên hỗ trợ, ghi sổ sách theo dõi bệnh nhân và cũng không có đưa chị T đến cơ sở y tế cấp cứu khi xảy ra biến chứng trong quá trình phẫu thuật.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Đức H đã khai nhận: Bị cáo có các văn bằng, chứng nhận chủ yếu như Bác sỹ-Thạc sĩ Y học, Chứng chỉ hành nghề khám chữa bệnh với bằng cấp chuyên môn “Bác sỹ chuyên khoa định hướng Phẫu thuật thẩm mỹ” và “Phạm vi hoạt động CM: Khám và phẫu thuật thẩm mỹ” cùng nhiều Giấy chứng nhận dự lớp tập huấn về thẩm mỹ khác. Trong thời gian trao dồi kiến thức tại Khoa thẩm mỹ-Bệnh viện quận Phú Nhuận, bị cáo có gặp chị Nguyễn Thị Lệ T thì chị T có xin số điện thoại của bị cáo rồi sau đó gọi điện thoại cho bị cáo yêu cầu nâng ngực và phẫu thuật vùng kín sau sinh; bị cáo báo đồng ý và báo giá cho chị là 74.000.000 đồng. Sau đó, chị T gọi điện thoại nói không đủ tiền và muốn nhờ bị cáo giúp đỡ giảm giá xuống 50.000.000 đồng, bị cáo nói khi nào có đủ tiền thì làm; một thời gian sau, chị T gọi điện thoại cho bị cáo nói chỉ lo được 50.000.000 đồng thì bị cáo nói bớt cho chị 3.000.000 đồng để về xe, chỉ lấy giá 47.000.000 đồng thôi và hẹn ngày phẫu thuật. Theo hẹn, chị T tự một mình đến nhà của bị cáo lúc khoảng 08 giờ ngày 03/7/2021 và có đưa trước cho bị cáo 12.000.000 đồng, số tiền còn lại chị nói sẽ thanh toán sau. Lúc chị T vệ sinh cơ thể theo yêu cầu của bị cáo xong, bị cáo cho chị T uống 02 viên thuốc Seduxen, 01 viên Clopheramine, truyền dịch vào tay trái, đo huyết áp và nhịp tim rồi đưa chị T vào phòng phẫu thuật dùng viết định vị trước các vị trí cần phẫu thuật trên ngực trái và phải của chị T xong, bị cáo tiêm 02 ống thuốc gây tê cục bộ hiệu Lidocain 2% ống 2ml dưới da vùng vú (ngực phải trước, ngực trái sau). Khoảng 10 phút sau, bị cáo dùng dao phẫu thuật tách da dưới vùng vú bên phải thì chị T kêu đau nên bị cáo tiếp tục tiêm thêm thuốc Lidocain có pha 01 giọt Adrenaline tương đương 0,01ml (gây mê tăng cường) và tính cho đến khi mở được khoang vú bên phải thì bị cáo đã tiêm hết khoảng 10 ống thuốc gây mê tăng cường vào vú phải của chị T rồi tiếp tục dùng dao phẫu thuật mở khoang vú bên trái thì chị T có biểu hiện suy hô hấp, tím tái trên khuôn mặt; mạch và huyết áp thể hiện trên máy đo điện tử 70/40. Thấy vậy, bị cáo nghĩ chị T bị sốc thuốc nên đã dừng phẫu thuật, tiến hành hồi sức hỗ trợ tích cực bằng cách cho chị T thở bình oxy, nhưng chị T bắt đầu co giật, tăng tiết đờm nên bị cáo dùng máy hút đờm, đặt ống nội khí quản, bóp bóng thở và truyền 02 chai nước biển cho chị T; đồng thời thấy có con của bị cáo là chị Phan Thị Hồng Hải (17 tuổi) bên ngoài thì bị cáo gọi vào hỗ trợ bóp bóng oxy cho chị T thở; còn bị cáo tiếp tục pha 01 ống Adrenaline vào đường truyền nước biển và tiêm trực tiếp 02 ống Adrenaline vào vùng tim của chị T thì đến 15 giờ cùng ngày, chị T chết. Một lúc sau, mẹ của chị T là bà Đ có gọi điện thoại cho chị T thì bị cáo nghe máy thông báo đến đóng tiền viện phí, nhưng bà Đ nói đang ở tỉnh Trà Vinh, xa và bận việc không đến được; trong khi đó, bị cáo chỉ có muốn duy nhất được gặp trực tiếp với người thân nhất của chị T để giải trình sự cố cái chết của chị T nên không nói thêm gì về thực trạng của chị T. Lúc này, do biết được quê của chị T ở tỉnh Trà Vinh nên bị cáo mượn xe ôtô biển số 51H-814.03 của con ruột là anh Phan Đức H1 và trực tiếp điều khiển, còn chị Hải đi theo xe chở thi thể chị T về tỉnh Trà Vinh để bàn giao cho gia đình an táng, nhưng không có nói gì cho anh H1 biết về việc làm của bị cáo. Tuy nhiên khi xe đến địa phận tỉnh Trà Vinh, do không liên lạc được với gia đình của chị T thì bắt đầu lo sợ tử thi bị hoại tử nên bị cáo đưa thi thể chị T đến Trại hòm Hai Viên nói trước nếu như khoảng 02 giờ nữa mà không tìm được nhà gia đình chị T thì quay lại nhờ mai táng và lưu giữ thi thể của chị T. Theo đó, đến khoảng 09 giờ ngày 05/7/2021, bị cáo quay lại đây đã bị Công an huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh đến kiểm tra phát hiện toàn bộ sự việc nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, tự nguyện đồng ý bồi thường thiệt hại cho anh Nguyễn Văn A tổng số tiền 1.676.320.000 đồng, trong đó tiền cấp dưỡng nuôi 02 con của chị T đến đủ 18 tuổi là 1.516.320.000 đồng và tiền tổn thất tinh thần là 160.000.000 đồng cho anh Ái cùng với số tiền tổ chức mai táng chị T và tổn thất tinh thần là 30.000.000 đồng cho mẹ ruột của chị T là bà Từ Thị Đ trong số tiền 50.000.000 đồng mà gia đình của bị cáo đã tự nguyện nộp để khắc phục 01 phần hậu quả trước theo như yêu cầu của anh Ái và bà Đ đã đưa ra. Riêng về giải quyết vật chứng, bị cáo không có yêu cầu gì.

Các người đại diện hợp pháp của chị T khai là bà Từ Thị Đ và anh Nguyễn Văn A khai:

- Đối với bà Đ, bà thừa nhận phần lớn khai trên của bị cáo H là đúng. Phần còn lại là, khi bị cáo gọi điện thoại cho bà là lúc 11 giờ ngày 04/7/2021 có hỏi đang ở đâu thì bà có nói nhà ở tại ngã ba Trạm, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh; bị cáo nói là người trung gian thấy chuyện bất bình và kêu bà ra quán nước để thỏa thuận; chờ đến 15 giờ, không thấy bị cáo đến nên gọi điện thoại hỏi bị cáo đang ở đâu thì bị cáo nói đang ở Trà Vinh và không biết đường đi. Đến 09 giờ sáng hôm sau, nghe được tin báo của Công an, con bà là anh Trần Văn Thảo đến đó thì mới biết được chị T chết trong lúc bị cáo phẫu thuật thẩm mỹ cho chị T. Nay bà chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại cho bà tiền tổ chức mai táng chị T và tổn thất tinh thần là 30.000.000 đồng. Đồng thời xin giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

- Anh Nguyễn Văn A cho biết có 01 phần lời khai của bị cáo không đúng là: Tại sao bị cáo nói có chờ người thân gọi điện thoại vào máy của chị T để nghe báo tin, nhưng lúc anh có gọi điện thoại vào số máy chị T mà bị cáo không nghe máy là mâu thuẫn. Còn số tiền trong thẻ ATM của chị T, nay đã biết được không có và Trại hòm Hai Viên còn có thông báo cho anh biết về chi phí tẩn liệm chị T là 30.000.000 đồng thì đã được phía gia đình bị cáo thanh toán xong nên không có ý kiến. Do đó, anh chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại cho anh với tổng số tiền 1.676.320.000 đồng gồm các khoản: Tiền cấp dưỡng nuôi 02 con chung của anh với chị T là Nguyễn Ngọc Thái Khang, sinh ngày 26/9/2014 số tiền 617.760.000 đồng và Nguyễn Ngọc Thái Bảo, sinh ngày 24/11/2019 số tiền 898.560.000 đồng tính từ lúc chị T chết cho đến khi các con đủ 18 tuổi bằng một lần cùng với tiền tổn thất tinh thần là 160.000.000 đồng. Ngoài ra không còn yêu cầu gì khác.

Bản cáo trạng số: 03/CT-VKS, ngày 13 tháng 12 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Phan Đức H ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”, theo điểm a khoản 1 Điều 315 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận có ý kiến như sau: Qua kết quả điều tra và sau khi kết thúc phần xét hỏi, nhận thấy về cơ bản lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ cũng như nội dung Cáo trạng đã công bố. Từ đó, đã có đủ cơ sở để khẳng định đây là vụ án “Vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh” do bị cáo Phan Đức H thực hiện trong lúc không có giấy phép hoạt động và chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp phép thực hiện phẫu thuật thẩm mỹ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng bị cáo đã tiến hành phẫu thuật thẩm mỹ nâng ngực và âm đạo cho chị Nguyễn Thị Lệ T dẫn đến chị T tử vong trong quá trình phẫu thuật rồi sau đó bị phát hiện bắt giữ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý về dịch vụ y tế của Nhà nước, xâm phạm đến tính mạng của người khác nên cần phải xử bị cáo với mức án nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường được 01 phần thiệt hại cho gia đình bị hại để khắc phục hậu quả; cha mẹ ruột có công với cách mạng, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 315; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về “Tội vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”. Còn về trách nhiệm dân sự, đề nghị ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường thiệt hại anh Nguyễn Văn A (chồng chị T) với tổng số tiền 1.676.320.000 đồng (trong đó, tiền cấp dưỡng nuôi 02 con bằng 01 lần là 1.516.320.000 đồng, còn tổn thất tinh thần là 160.000.000 đồng) và cho bà Đ (mẹ ruột chị T) với tổng số tiền là 30.000.000 đồng. Còn vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy gồm: 02 cục pin hiệu Panasonic; 01 ống Clophenilamin 4; 01 giữ chống sụt lưỡi; 01 bình nhựa đựng chất lỏng không màu (Ghi cồn 90c); 01 chai nhựa màu vàng có ghi Poxidine 10%; 01 chai nhựa màu trắng bên trong có dung dịch màu trắng (Sodilimn Chloride insection 0.9%); 01 miếng gạt dính vết màu đỏ;

06 miếng Lignospan Slandald; 06 ống Lidocain; 04 kim tiêm; 02 xi lanh; 01 bình Adrenaline; 03 túi Adrenaline-BFS 5mg; 03 Lignospan Slandard; 03 ống Genlamicin Kali 80ml/2ml; 03 kim tiêm 27G Ierumo Dental Needle; 03 lưỡi dao mổ số 15 Steile Blade; 02 chỉ khâu vết thương Carelon; 03 chỉ khâu vết thương Ethicon 3-0; 03 túi nhập hiệu Pacflam 5mg/1ml; 01 túi màu xanh hiệu Adrenaline- DFS 1mg; 01 bình thủy tinh có ghi panlogen; 01 số gạt màu trắng; 01 ống xi lanh, kim tiêm (buồng tiêm); 01 kim tiêm và vỏ Teflo; 02 vỉ thuốc Senduxen (tổng cộng 11 viên). Tịch thu sung quỹ Nhà nước gồm: Số tiền 12.000.000 đồng; 03 các nuyn;

01 ống thở; 01 van một chiều thở tích cực; 01 bóp bóng, thở; 01 máy hút đờm dãi Yuylie 7A-230 và 02 ống nhựa; 02 hộp Round Colletion; 01 đèn soi nội khí quản;

01 bình kim loại màu xanh (ghi Oxgen 02). Giao trả lại cho gia đình bị hại chiếc điện thoại di động hiệu Samsung F6+.

Các người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Ái, Luật sư Nguyễn Quang V, Trần Ngọc H và Tô Thị Bích L đều không thống nhất về tội danh truy tố đối với bị cáo bởi do: Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay thì, bị cáo thấy rõ hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho tính mạng của bị hại nhưng vẫn thực hiện phẫu thuật thẩm mỹ cho chị T, đến lúc chị T bị sốc phản vệ nhưng áp dụng biện pháp cấp cứu không đúng quy định; sau khi có sự cố xảy ra, bị cáo tự cấp cứu cho chị T là biết nguy hiểm đến tính mạng mà vẫn thực hiện là mặc nhiên để cho hậu quả xảy ra nên đó hành vi giết người; đồng thời biết được một trong các loại thuốc dùng trong phẫu thuật có hàm lượng ma túy nhất định mà vẫn sử dụng là hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; ngoài ra còn tự ý điều khiển xe chở chị T về quê chậm trễ trong lúc có dịch bệnh Covid 19 là có hành vi xâm phạm thi thể chị T và làm lây lan dịch bệnh nên đề nghị Hội xét xử xem xét lại các hành vi của bị cáo như vừa mới nêu. Riêng về trách nhiệm dân sự, do bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho anh Ái với tổng số tiền 1.676.320.000 đồng nên đề nghị ghi nhận.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt. Riêng các người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Ái cũng như Kiểm sát viên không ai tranh luận mà giữ nguyên ý kiến đã đưa ra; còn bà Đ đề nghị xử bị cáo 01 năm tù là mới có tính nhân đạo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra-Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, các đại diện hợp pháp bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Phan Đức H tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Tuy bị cáo sử dụng nhà ở tại nhà số XYZ, đường Mã Lò, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân làm cơ sở hành nghề phẫu thuật thẩm mỹ trong điều kiện không có giấy phép hoạt động mà chỉ có các điều kiện về văn bằng, chứng nhận chủ yếu như Thạc sĩ Y học, Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số: 0000916, do Sở Y tế tỉnh Đắk Nông cấp ngày 08/01/2014 với nội dung “Bằng cấp chuyên môn: “Bác sỹ chuyên khoa định hướng Phẫu thuật thẩm mỹ” và “Phạm vi hoạt động CM: Khám và phẫu thuật thẩm mỹ” cùng nhiều Giấy chứng nhận dự lớp tập huấn về thẩm mỹ khác; đồng thời, còn có chuẩn bị sẵn trang thiết bị, vật tư y tế cơ bản dùng để hành nghề. Trong đó có chị Nguyễn Thị Lệ T đến yêu cầu bị cáo phẫu thuật thẩm mỹ ngực và âm đạo với giá 47.000.000 đồng thì được bị cáo đồng ý. Thời gian bắt đầu thực hiện hành vi phẫu thuật cho chị T là từ khoảng 08 giờ đến 15 giờ ngày 03/7/2021; trong quá trình đó, bị cáo tự một mình lần lượt cho chị T uống 02 viên thuốc Seduxen, 01 viên Clopheramine, truyền dịch, đo huyết áp và nhịp tim; tiêm 02 ống thuốc gây tê cục bộ hiệu Lidocain 2% ống 2ml rồi dùng dao phẫu thuật tách da dưới vùng vú cho đến khi: chị T kêu đau, bị cáo tiếp tục tiêm thêm thuốc Lidocain có pha 01 giọt Adrenaline tương đương 0,01ml (gây mê tăng cường) và tính cho đến khi mở được khoang vú bên phải thì bị cáo đã tiêm hết khoảng 10 ống thuốc gây mê tăng cường cho chị T; sau đó tiếp tục dùng dao phẫu thuật mở khoang vú bên trái thì chị T có biểu hiện suy hô hấp, tím tái trên khuôn mặt; mạch và huyết áp thể hiện trên máy đo điện tử 70/40, bị cáo nghĩ chị T bị sốc thuốc nên đã dừng phẫu thuật, tiến hành hồi sức hỗ trợ tích cực bằng cách cho chị T thở bình oxy, nhưng chị T chuyển biến thêm co giật, tăng tiết đờm; bị cáo dùng máy hút đờm, đặt ống nội khí quản, bóp bóng thở và truyền 02 chai nước biển cho chị T; đồng thời, pha 01 ống Adrenaline vào đường truyền nước biển và tiêm trực tiếp 02 ống Adrenaline cho chị T thì đến 15 giờ cùng ngày, chị T đã chết rồi trong lúc bị cáo trực tiếp điều khiển xe ôtô đưa thi thể chị T về quê ở huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh đã bị Công an kiểm tra phát hiện bắt giữ. Xét, do bị cáo thực hiện hành vi phẫu thuật thẩm mỹ cho chị T trái với các quy định tại khoản 7 Điều 2; khoản 2 Điều 6; khoản 1, 4 Điều 74 Luật Khám bệnh, chữa bệnh; Điều 26 Nghị định số 109/2016/NĐ-CP, ngày 01/7/2016 và khoản 8 Điều 11 Nghị định số: 155/2018/NĐ-CP ngày 12/11/2018 của Chính phủ; Thông tư số 41/2011/TT-BYT, ngày 14/11/2011; Thông tư số 41/2015/TT- BYT; Thông tư số 41/2017/TT-BYT, ngày 09/11/2017; Thông tư số 43/2013/TT- BYT, ngày 11/12/2013; Thông tư số 50/2014/TT-BYT, ngày 26/12/2014 của Bộ Y tế. Còn việc chị T chết là nằm ngoài tiên lượng và ý muốn của bị cáo.

[ *Tại Bản kết luận giám định pháp y về mô bệnh học số: 54/21/MBH, ngày 12/7/2021 của Viện Pháp y Quốc gia-Phân viện tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận về tình trạng mẫu mô của Nguyễn Thị Lệ T như sau: Sung huyết các tạng;

thận: Lồng ống thận chứa đầy trụ hồng cầu; cơ: Mô kẽ cơ vân phù, tụ máu trong mô liên kết mỡ sợi; tim: Thiểu dưỡng cơ tim cấp; phổi: Sung huyết và phù phổi cấp; một số tế bào của các cơ quan đang trong giai đoạn hoại tử.

*Tại Bản kết luận giám định Pháp y về hóa pháp số: 263/266/337/21/ĐC ngày 15/7/2021 của Phân Viện Pháp y Quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận về độc chất có trong phủ tạng của Nguyễn Thị Lệ T như sau:

Trong mẫu phủ tạng vụ Nguyễn Thị Lệ T, sinh năm 1991 do Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh gửi tới giám định ngày 06/7/2021:

- Có tìm thấy Lidocain.

- Không tìm thấy các chất độc khác nêu trên.

*Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 426/KLGĐ, ngày 16/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Trà Vinh kết luận nguyên nhân chết của Nguyễn Thị Lệ T như sau:

- Dấu hiệu chính qua giám định:

+ Toàn thân tử thi trương, hoại tử nhiều nơi.

+ Rách da cơ dưới vú 2 bên; xung quanh vết rách có vết bầm tụ máu.

+ Tụ máu dưới da và cơ dưới vú phải, da cơ lóc (bóc tách) khỏi xương sường, xương ức.

+ Phổi hai bên phù sưng huyết, xuất huyết; hệ thống khí phế quản trong lòng tăng tiết, sung huyết, xuất huyết.

+ Tim: Cơ tim nhão, mặt sau 2 tâm thất sung huyết, xuất huyết; buồng tim chứa ít máu không đông.

+ Kết quả giám định pháp y về mô bệnh học: Thiểu dưỡng cơ tim cấp, sung huyết và phù phổi cấp, các cơ quan khác sung huyết, hoại tử.

+ Kết quả giám định pháp y về hóa pháp: Có tìm thấy Lidocain trong mẫu phủ tạng.

- Nguyên nhân chết: Qua giám định tử thi Nguyễn Thị Lệ T, căn cứ vào tổn thương trên đại thể, vi thể, độc chất chúng tôi đưa đến kết luận: Nguyên nhân chính dẫn đến Nguyễn Thị Lệ T tử vong là do suy tim cấp, suy hô hấp trên cơ địa có Lidocain.

*Tại Công văn số: 17/PC09, ngày 02/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Trà Vinh giải thích Kết luận giám định pháp y số: 426/KLGĐ, ngày 16/7/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Trà Vinh, như sau:

- Nguyên nhân chính dẫn đến chị Nguyễn Thị Lệ T tử vong là do suy tim cấp, suy hô hấp cấp có khả năng là do Lindocain gây nên.

- Lidocain có thể gây sốc phản vệ tùy thuộc vào cơ địa của từng người và phụ thuộc vào liều lượng.

[3] Như vậy, đã có đủ căn cứ xác định bị cáo Phan Đức H phạm “Tội vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 315 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay cơ bản phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra lời khai của người biết việc, các người đại diện hợp pháp của bị hại, người tham gia tố tụng khác, vật chứng thu giữ được; biên bản, bản ảnh khám nghiệm hiện trường; các kết luận giám định về thuốc trong cơ thể và nguyên nhân chết của bị hại…nên đã có đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và 01 phần lời đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận; riêng mức án đề nghị đối với bị cáo là chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây; còn việc áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo là không đúng bởi do, gia đình bị cáo chỉ mới nộp phần tiền để bồi thường thiệt hại rất nhỏ (50.000.000 đồng) so với yêu cầu chính đáng của gia đình bị hại đã đưa ra và không có người nào đồng ý nhận số tiền này trước khi mở phiên tòa nên không chấp nhận. Còn các người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Ái là Luật sư Vũ, Hòa và Liên cho rằng: hành vi của bị cáo không những là giết người mà còn tàng trữ trái phép chất ma túy, xâm phạm thi thể chị T và làm lây lan dịch bệnh Covid 19 thì hoàn không có căn cứ bởi do, bị cáo không có hành vi nào như lời của các luật sư đưa ra nên không chấp nhận.

[5] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, không những gây thiệt hại cho tính mạng của người khác mà còn làm giảm đi hiệu lực quản lý của Nhà nước về lĩnh vực khám chữa bệnh; bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, vi phạm pháp luật nhưng do tính cẩu thả, tự tin vào bản thân và xem thường Luật khám bệnh, chữa bệnh nên đã gây ra chết người. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án với mức án thật nghiêm và tương xứng với với tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng nhân thân của bị cáo thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường được 01 phần nhỏ thiệt hại bằng vật chất cho gia đình bị hại, được mẹ ruột bị hại xin giảm nhẹ mức hình phạt và gia đình bị cáo có công với cách mạng nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Xét tại phiên tòa hôm nay, các người đại diện hợp pháp của chị T là: Đối với bà Từ Thị Đ yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại cho bà về tiền tổ chức mai táng cho chị T và tổn thất tinh thần là 30.000.000 đồng. Còn anh Nguyễn Văn A, yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại cho anh với tổng số tiền 1.676.320.000 đồng; trong đó, tiền cấp dưỡng nuôi 02 con chung với chị T tên Nguyễn Ngọc Thái Khang, sinh ngày 26/9/2014 số tiền 617.760.000 đồng và Nguyễn Ngọc Thái Bảo, sinh ngày 24/11/2019 số tiền 898.560.000 đồng tính từ lúc chị T chết cho đến khi các con đủ 18 tuổi bằng 01 lần; riêng tiền tổn thất tinh thần là 160.000.000 đồng thì tất cả các yêu cầu này đã được bị cáo tự nguyện đồng ý là không trái quy định của pháp luật dân sự nên cần ghi nhận.

[7] Về số tiền 50.000.000 đồng mà con ruột của bị cáo là anh Phan Đức H1 tự nguyện nộp vào Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân với mục đích cho bị cáo dùng bồi thường trước một phần thiệt hại cho gia đình bị hại thì bà Đ có yêu cầu được nhận 30.000.000 đồng, còn anh Ái nhường cho bà Đ nhận trước số tiền đó; riêng 20.000.000 đồng còn lại, anh Ái không nhận mà yêu cầu bị cáo phải trả 01 lần nên tiếp tục được tạm giữ số tiền này để đảm bảo thi hành án.

[7] Về vật chứng: Đối với số tiền 12.000.000 đồng là được coi là do phạm tội mà có nên cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước. Còn 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung F6+ của bị hại là chị T, do chị T đã chết nên cần giao trả lại cho chồng chị là anh Nguyễn Văn A. Riêng 01 cái đèn sôi nội khí quản, 01 cái ống thở, 01 cái van chiều thở tích cực, 02 cục pin hiệu Panasonic, 01 ống Clophenilamin 4, 01 cái giữ chống sụt lưỡi, 01 cái bình nhựa đựng chất lỏng không màu (ghi cồn 90c), 01 cái chai nhựa màu vàng có ghi Poxidine 10%, 01 cái chai nhựa màu trắng bên trong có dung dịch màu trắng (Sodilimn Chloride insection 0,9%); 01 cái bóp bong, thở; 01 miếng gạt dính vết màu đỏ, 06 miếng Lignospan Slandald, 04 cái kim tiêm, 02 ống xi lanh, 01 cái bình Adrenaline, 03 cái túi Adrenaline-BFS 5mg, 03 cái Lignospan Slandard, 03 cái ống Genlamicin Kali 80ml/2ml, 06 cái ống Lidocain, 03 cái kim tiêm 27G Ierumo Dental Needle, 03 cái lưỡi dao mỗ số 15 Steile Blade, 02 chỉ khâu vết thương Carelon, 03 chỉ khâu vết thương Ethicon 3-0, 03 cái túi nhập hiệu Pacflam 5mg/1ml, 01 cái túi màu xanh hiệu Adrenaline-DFS 1mg, 01 cái bình thủy tinh có ghi panlogen, 01 số gạt màu trắng; 01 cái ống xi lanh, kim tiêm (buồng tiêm); 01 cái kim tiêm và vỏ Teflo, 01 cái bình kim loại màu xanh (ghi Oxgen 02); 01 cái máy hút đàm dãi Yuylie 7A-230 và 02 ống nhựa; 02 hộp Round Colletion, 01 vỉ thuốc Senduxen (tổng cộng 11 viên), 03 các Nuyn là thiết bị vật tư y tế, không rõ thời hạn sử dụng và không được bảo quản đúng quy định chuyên ngành nên nếu sử dụng có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của con người, cần tịch thu tất cả để tiêu hủy. Đồng thời, đây cũng là lý do không chấp nhận 01 phần yêu cầu về xử lý vật chứng của Kiểm sát viên vừa nêu trên.

[8] Bị cáo Phan Đức H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm (gồm có cả phần án phí cấp dưỡng nuôi con) theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phan Đức H phạm “Tội vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh”.

- Về điều luật áp dụng và xử phạt: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 315; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Phan Đức H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07-7-2021.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 2 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; các điều 585, 586, 591, 357 và 468 Bộ luật Dân sự năm 2015. Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Phan Đức H bồi thường thiệt hại cho: Bà Từ Thị Đ số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng; anh Nguyễn Văn A số tiền 1.676.320.000 (một tỷ sáu trăm bảy mươi sáu triệu ba trăm hai mươi nghìn) đồng (trong đó, tiền cấp dưỡng nuôi con chung với chị T là Nguyễn Ngọc Thái Khang, sinh ngày 26/9/2014 số tiền 617.760.000 đồng và Nguyễn Ngọc Thái Bảo, sinh ngày 24/11/2019 số tiền 898.560.000 đồng bằng 01 lần tính từ lúc chị T chết cho đến khi các con đủ 18 tuổi; còn tiền tổn thất tinh thần là 160.000.000 đồng).

Kể từ ngày bà Từ Thị Đ, anh Nguyễn Văn A có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Phan Đức H chưa thi hành số tiền nêu trên thì hàng tháng bị cáo H còn phải chịu thêm cho bà Đ, anh Ái tiền lãi theo mức lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền được quy định tại các điều 357 và 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Về số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng mà con ruột của bị cáo là anh Phan Đức H1 tự nguyện nộp vào Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân với mục đích cho bị cáo dùng bồi thường trước một phần thiệt hại cho gia đình bị hại: Giao trả cho bà Từ Thị Đ số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng (được coi là tiền bồi thường thiệt như đã nêu trên); còn lại 20.000.000 đồng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 12.000.000 (mười hai triệu) đồng. Giao trả lại cho anh Nguyễn Văn A 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung F6+. Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 cái đèn sôi nội khí quản, 01 cái ống thở, 01 cái van chiều thở tích cực, 02 cục pin hiệu Panasonic, 01 ống Clophenilamin 4, 01 cái giữ chống sụt lưỡi, 01 cái bình nhựa đựng chất lỏng không màu (ghi cồn 90c), 01 cái chai nhựa màu vàng có ghi Poxidine 10%, 01 cái chai nhựa màu trắng bên trong có dung dịch màu trắng (Sodilimn Chloride insection 0,9%); 01 cái bóp bong, thở; 01 miếng gạt dính vết màu đỏ, 06 miếng Lignospan Slandald, 04 cái kim tiêm, 02 ống xi lanh, 01 cái bình Adrenaline, 03 cái túi Adrenaline-BFS 5mg, 03 cái Lignospan Slandard, 03 cái ống Genlamicin Kali 80ml/2ml, 06 cái ống Lidocain, 03 cái kim tiêm 27G Ierumo Dental Needle, 03 cái lưỡi dao mỗ số 15 Steile Blade, 02 chỉ khâu vết thương Carelon, 03 chỉ khâu vết thương Ethicon 3-0, 03 cái túi nhập hiệu Pacflam 5mg/1ml, 01 cái túi màu xanh hiệu Adrenaline-DFS 1mg, 01 cái bình thủy tinh có ghi panlogen, 01 số gạt màu trắng; 01 cái ống xi lanh, kim tiêm (buồng tiêm); 01 cái kim tiêm và vỏ Teflo, 01 cái bình kim loại màu xanh (ghi Oxgen 02); 01 cái máy hút đàm dãi Yuylie 7A-230 và 02 ống nhựa; 02 hộp Round Colletion, 01 vỉ thuốc Senduxen (tổng cộng 11 viên), 03 các Nuyn.

(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo các Phiếu nhập kho số: NK22/89TAM, ngày 22/3/2022 và số: NK23/48TAM, ngày 15/12/2022. Riêng số tiền 12.000.000 đồng và 50.000.000 đồng đã được Công an quận Bình Tân gửi vào Kho bạc Nhà nước quận Bình Tân theo các giấy nộp tiền và Lệnh thanh toán ngày 24/3/2022 và 27/5/2022 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn Việt Nam-Chi nhánh Bình Tân) - Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Phan Đức H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 9.800.000 (chín triệu tám trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm (trong đó, 9.500.000 đồng là án phí dân sự và 300.000 đồng là án phí cấp dưỡng nuôi con).

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phan Đức H; các người đại diện hợp pháp cho bị hại là bà Từ Thị Đ và anh Nguyễn Văn A có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh số 95/2023/HS-ST

Số hiệu:95/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về