TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ N, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 87/2022/HS-ST NGÀY 06/12/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 06 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã N, tỉnh Khánh Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 96/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:
Phạm Đình D, sinh năm 1979 tại: Quảng Ngãi; Nơi cư trú: Tổ dân phố 1, thị trấn Mộ Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn T, sinh năm 1935; con bà Phạm Thị N, sinh năm 1933; vợ Lê Thị Thùy N, sinh năm 1980; có hai con sinh năm 2009 và 2020; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 29/7/2022 cho đến nay; có mặt.
Bị hại: Ông Lê Đại Lâm V, sinh năm 1973 (đã chết);
Nơi cư trú cuối cùng: Thôn Vạn Khê, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa.
Người đại diện hợp pháp của bị hại:
1. Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1954;
Nơi cư trú: Thôn Vạn Khê, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.
2. Bà Phạm Thị Mỹ V, sinh năm 1981;
Nơi cư trú: Thôn Vạn Khê, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.
3. Anh Lê Bá T, sinh năm 2000;
Nơi cư trú: Thôn Vạn Khê, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.
4. Chị Lê Thị Thanh T, sinh năm 2004;
Nơi cư trú: Thôn Vạn Khê, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.
5. Em Lê Thị Mai Q, sinh năm 2008;
Nơi cư trú: Thôn Vạn Khê, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị C, chị Lê Thị Thanh T: Bà Phạm Thị Mỹ V, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Thôn Vạn Khê, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa (Giấy ủy quyền lập ngày 30/3/2022 tại Ủy ban nhân dân xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa); có mặt.
Người đại diện hợp pháp của em Lê Thị Mai Q: Bà Phạm Thị Mỹ V, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Thôn Vạn Khê, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Bà Nguyễn Thị Ái T, sinh năm 1976;
Nơi cư trú: Thôn Nga Mân, xã P, huyện P, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.
2. Ông Lê Kim N, sinh năm 1948;
Nơi cư trú: Tổ dân phố Thanh Châu, phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 19/3/2022, Phạm Đình D có giấy phép lái xe và điều khiển xe ô tô khách biển số 76B-X lưu hành theo Quốc lộ 1A hướng Bắc-Nam.
Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến Km 1424+600 Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn Mỹ Lợi, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa là đoạn có biển báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên. Dương thấy ông Lê Đại Lâm V điều khiển xe mô tô biển số 79K6-X đi qua đường hướng từ trái qua phải theo chiều di chuyển của xe ô tô. Dương đạp phanh đồng thời đánh tay lái sang bên phải để tránh, nhưng không kịp đã va chạm vào xe mô tô biển số 79K6-X gây tai nạn, làm ông Viên ngã xuống đường bị thương. Người dân xung quanh đã đưa ông Viên đến bệnh viện cấp cứu. Do thương tích nặng nên đến ngày 20/3/2022, ông Viên chết tại bệnh viện.
Theo sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 19/3/2022 và sơ đồ hiện trường, biên bản dựng lại hiện trường ngày 06/4/2022 thì nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường giao nhau giữa Quốc lộ 1A với đường vào Trường Trung học cơ sở Tôn Đức Thắng và đường vào Cầu Cháy; đường Quốc lộ 1A có dải phân cách cứng phân chia thành hai phần đường riêng biệt; Tại điểm giao nhau là điểm mở dải phân cách dài 45m. Tai nạn xảy ra trên phần đường hướng Vạn Ninh-Nha Trang, mặt đường rải nhựa bằng phẳng, rộng 14m50, được chia thành 02 làn đường bằng vạch kẻ đường dạng đứt quãng, làn thứ nhất sát dải phân cách rộng 3m50, làn bên phải rộng 11m tiếp giáp với lề đường đất rộng 11m50. Xe ô tô khách biển số 76B-X để lại hai vết phanh dài 60m song song với nhau theo chiều Bắc-Nam, có điểm đầu cách vạch kẻ đường 0,6m, điểm cuối tiếp giáp với hai bánh phía sau xe ô tô. Sau tai nạn dừng trên lề đường hướng Tây, đầu xe xoay về hướng Nam, tâm trục bánh trước và bánh sau bên trái cách mép mặt đường bên phải (theo chiều di chuyển của xe ô tô) lần lượt là 02m70 và 02m; Cách tâm trục bánh sau bên trái xe ô tô 08m40 về hướng Đông Bắc là tâm trục bánh trước xe mô tô 79K6-X. Xe mô tô nằm ngã nghiêng bên phải trên phần đường bên phải (theo chiều di chuyển của xe ô tô), để lại vết cày xước dạng đứt quãng dài 26,6m, điểm đầu cách mép đường bên phải 8m50, cách điểm đầu vết phanh là 24,2m, điểm cuối tiếp giáp với gác chân trước bên phải xe mô tô; Đầu xe xoay về hướng Nam. Tâm trục bánh trước và bánh sau cách mép mặt đường bên phải lần lượt là 04m60 và 04m40. Cách tâm trục bánh sau xe mô tô về hướng Đông 01m90 là vùng dịch tạp chất màu đỏ dạng máu có kích thước 01m50 x 01m. Cách tâm trục bánh trước xe mô tô về hướng Đông Bắc 44m là biển báo “STOP”. Trên lề đường bên phải (chiều di chuyển của xe ô tô) về hướng Bắc có biển báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên cách tâm trục bánh sau bên phải xe ô tô 223m.
Theo các biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông ngày 19/3/2022 thì xe ô tô biển số 76B-X vùng gương chắn gió trước, bên trái rạn nứt lõm, hình cầu từ ngoài vào trong, kích thước 30cm x 20cm có dính các vật thể dạng sợi tóc, tâm vết nứt cách mặt đất 145cm; ốp nhựa trước, cụm đèn chiếu sáng trước, khung kim loại cạnh đèn chiếu sáng, cánh cửa thùng hàng bên trái ... bị bể, gãy, có vết trầy xước. Xe mô tô 79K6-X bảng đồng hồ vỡ rời khỏi vị trí, đuôi tay lái bên phải có vết bong tróc cao su, tay phanh bị gãy, đầu ốp sườn bên phải bể nhựa, gác chân trước bên phải cong hướng từ sau ra trước, có vết xước kim loại.
Tại Bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ số 216/GĐHS-TTPY ngày 29/4/2022 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Khánh Hòa kết luận: Nguyên nhân tử vong của Lê Đại Lâm V là do: Đa chấn thương.
Trong quá trình điều tra bị can thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại 175.000.000 đồng.
Vật chứng vụ án thu giữ: 01 xe ô tô biển số 76B-X, 01 xe mô tô biển số 79K6-X. Đều đã được Cơ quan điều tra ra quyết định xử lý bằng hình thức trả cho chủ sở hữu.
Trách nhiệm dân sự: Đại diện theo ủy quyền của gia đình bị hại đã được bồi thường và có đơn bãi nại trách nhiệm dân sự.
Tại bản Cáo trạng số 80/CT-VKS-HS ngày 21/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã N, tỉnh Khánh Hòa truy tố bị cáo Phạm Đình D về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Phạm Đình D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã nêu, thấy rõ việc làm của mình là vi phạm pháp luật và xin được giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Phạm Đình D đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Phạm Đình D từ 09 tháng đến 12 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện theo ủy quyền của đại diện hợp pháp bị hại có đơn xin bãi nại và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã N đã trả lại 01 xe ô tô biển số 76B-X và 01 xe mô tô biển số 79K6-X cho chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Khi tranh luận đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên lời luận tội, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và trong lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử cho hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Như vậy các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[1.2] Người đại diện hợp pháp của bị hại anh Lê Bá T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị Ái T vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ đã có lời khai tại Cơ quan điều tra và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án. Căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về tội danh và khung hình phạt: Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ đã xâm phạm tới quy định về an toàn giao thông đường bộ là khách thể được Bộ luật hình sự ghi nhận và bảo vệ. Cụ thể lỗi của bị cáo Phạm Đình D khi điều khiển xe ô tô mang biển kiểm số 76B-X không tuân thủ quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn vi phạm khoản 1 Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ giao thông vận tải và Điều 12 Luật giao thông đường bộ gây tai nạn làm bị hại là ông Lê Đại Lâm V chết.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ như: Sơ đồ hiện trường tai nạn giao thông; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ; Biên bản khám nghiệm phương tiện. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức được việc vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ là vi phạm pháp luật nhưng do cẩu thả bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.
Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử nhận thấy đã có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông khi tham gia giao thông của bị cáo Phạm Đình D dẫn đến việc ông Lê Đại Lâm V tử vong đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015.
Như vậy, nội dung cáo trạng số 80/CT-VKS-HS ngày 21/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã N, tỉnh Khánh Hòa là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; tính chất, mức độ hành vi phạm tội:
Bị cáo có nhân thân tốt và không có tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự.
Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Dương có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 175.000.000 đồng; gia đình bị hại có đơn xin bãi nại và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nguyên nhân dẫn đến tai nạn có một phần lỗi của bị hại (không nhường đường cho xe đi trên đường ưu tiên) là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015;
Bị cáo phải nhận thức được khi điều khiển phương tiện giao thông thì phải tuân thủ quy định của Luật giao thông đường bộ. Xe ô tô khi tham gia giao thông là nguồn nguy hiểm cao độ, khi điều khiển xe bị cáo đã không tuân thủ quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn để xảy ra tai nạn. Hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm theo pháp luật. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để thể hiện các nguyên tắc nhân đạo, công bằng của chính sách hình sự của Nhà nước.
[4] Về căn cứ quyết định hình phạt: Mức hình phạt do đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo Phạm Đình D tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” từ 09 tháng đến 12 tháng tù giam là phù hợp với tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét đến nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có mức hình phạt phù hợp.
Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong đó có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bên cạnh đó bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, nơi làm việc ổn định, nguyên nhân dẫn đến tai nạn có một phần lỗi của bị hại (không nhường đường cho xe đi trên đường ưu tiên) nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 cho hưởng án treo là phù hợp.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị hại đã nhận bồi thường của bị cáo Phạm Đình D số tiền 175.000.000 đồng và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã N đã trả lại một xe ô tô biển số 76B-X và 01 xe mô tô biển số 79K6- X cho chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015; Căn cứ vào Điều 135, Điều 136, Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án,
1. Xử phạt: Bị cáo Phạm Đình D 01 (Một) năm tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (Hai) năm tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Phạm Đình D cho Ủy ban nhân dân thị trấn Mộ Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
2. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Đình D phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 87/2022/HS-ST
Số hiệu: | 87/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về