Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 82/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 82/2023/HS-PT NGÀY 29/09/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 29 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 80/2023/TLPT-HS ngày 14 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo Vũ Văn N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2023/HSST ngày 21/6/2023 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Phước - Bị cáo có kháng cáo:

Vũ Văn N, sinh năm 1973 tại Bình Phước Nơi cư trú và có hộ khẩu thường trú: Ấp 3, xã T, huyện L, tỉnh Bình Phước; chỗ ở hiện nay: Ấp H, xã T1, huyện L, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn T và bà Đỗ Thị N; có vợ là bà Trương Thị T và có 04 người con, lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không; được tại ngoại “có mặt”.

Ngoài ra còn có bị hại ông Huỳnh Văn Đ và người đại diện hợp pháp của bị hại ông Nguyễn Văn C là bà Hứa Thị T nhưng không có kháng cáo, kháng nghị và không xem xét nên không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Vũ Văn N làm nghề lái xe ô tô tải chở hàng rau, củ, quả buôn bán tại các chợ dân sinh, có giấy phép lái xe nhưng đã hết hạn. Khoảng 12 giờ ngày 30/9/2022, bị cáo Vũ Văn N điều khiển xe ôtô tải biển số 93H-X chở rau, củ, quả đi từ huyện L, tỉnh Bình Phước đến bán tại chợ phường M, thị xã C, tỉnh Bình Phước. Bán hàng xong, bị cáo tiếp tục điều khiển xe ô tô tải đi từ chợ M ra đường liên khu phố và lưu thông hướng phường M đi phường H để tiếp tục bán hàng tại chợ C thuộc phường H, thị xã C. Khi đến ngã tư giao nhau với đường ưu tiên là đường ĐH01 thuộc khu phố 3A, phường M, bị cáo nhìn thấy xe mô tô biển số 83Y1-X do ông Huỳnh Văn Đ điều khiển, phía sau chở ông Nguyễn Văn C, lưu thông trên đường ĐH01, hướng từ đường Quốc lộ 13 đi phường T, thị xã C, cách khoảng 20 mét. Do bị cáo không nhường đường tại nơi giao nhau với đường ưu tiên nên đầu xe ô tô tải của bị cáo đụng vào bên trái xe mô tô của ông Huỳnh Văn Đ chở ông Nguyễn Văn C, xảy ra tai nạn giao thông. Sau tai nạn giao thông, bị cáo dừng xe tại hiện trường, ông Nguyễn Văn C bị thương nặng và chết trên đường đi cấp cứu, còn ông Huỳnh Văn Đ bị xây xát nhẹ.

- Tại Bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 333/KL(PY)-KTHS ngày 18 tháng 10 năm 2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước, kết luận: “2. Nguyên nhân chết: Nguyễn Văn C, sinh năm 1996 bị chấn thương ngực, bụng kín gây giập vỡ đa tạng dẫn đến tử vong. - Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 21/KLĐG-HĐĐGTS ngày 22 tháng 3 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã C, kết luận: “- Giá trị thiệt hại của xe mô tô biển số 83Y1-X, nhãn hiệu Yamaha, số loại Exciter, màu sơn: Xanh Bạc Đen, số máy: G3D4E483185, số khung: RLCUG0610HY462057, tại thời điểm xảy ra vụ tai nạn giao thông là: 11.000.000 đồng.” - Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra đã thu giữ 01 xe mô tô biển số 83Y1-X tạm giữ của ông Huỳnh Văn Đ, đã chuyển Đội Cảnh sát giao thông - Trật tự Công an thị xã Chơn Thành, xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Huỳnh Văn Đ và xử lý phương tiện theo thẩm quyền; 01 xe ô tô tải biển số 93H-X của bị cáo Vũ Văn N. Các phương tiện trên có đăng ký hợp pháp, không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên đã xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu.

- Trách nhiệm dân sự: Bị cáo Vũ Văn N đã bồi thường cho người đại diện của bị hại ông Nguyễn Văn C là bà Hứa Thị T với số tiền 100.000.000 đồng; và bồi thường chi phí sửa chữa xe mô tô bị hư hỏng cho ông Huỳnh Văn Đ số tiền 15.000.000 đồng. Bà Hứa Thị T và ông Huỳnh Văn Đ không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2023/HS-ST ngày 21 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Phước đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn N phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 260; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các điều 38, 50, 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Vũ Văn N 02 (hai) năm tù; thời hạn tù kể từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án. Ngoài ra, còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 23 tháng 6 năm 2023, bị cáo Vũ Văn N có đơn kháng cáo yêu cầu được hưởng án treo. Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo thấy mức hình phạt mà Toà án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo 02 năm tù là tương xứng nên bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo chỉ kháng cáo yêu cầu được hưởng án treo.

Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm thể hiện như sau: Đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa một phần Bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Vũ Văn N đã hoàn toàn thừa nhận việc phạm tội và hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã xác định. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm 2 khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[2] Xét kháng cáo về yêu cầu được hưởng án treo của bị cáo Vũ Văn N, thấy rằng: Bị cáo có nhân thân tốt, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã khắc phục bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đã được Toà án cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án, người đại diện hợp pháp của bị hại ông Nguyễn Văn C là bà Hứa Thị T có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện tại “Đơn xin bãi nại và đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự” ngày 10/3/2023 và “Đơn xin bãi nại” ngày 07/10/2022 nhưng Toà án cấp sơ thẩm không xem xét cho bị cáo về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này là có thiếu sót nên cần phải bổ sung thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này cho bị cáo. Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo cung cấp thêm xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã T, huyện L xác nhận bị cáo là con trai của bà Đỗ Thị N là người có công tham gia Cách mạng kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt bị cáo có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn neo đơn, hiện nay là lao động chính trong gia đình trực tiếp chăm người mẹ già yếu và người em gái bị bệnh thần kinh không có khả năng nhận thức và không tự sinh hoạt, vệ sinh cá nhân được; ngoài ra, bị cáo có nơi thường trú cụ thể rõ ràng, có khả năng tự cải tạo và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là có đầy đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định của pháp luật và phù hợp với chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước mà cũng không gây nguy hiểm cho xã hội và không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, sửa một phần Bản án sơ thẩm về hình phạt theo hướng giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo được hưởng án treo theo Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

[3] Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa một phần Bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Vũ Văn N không phải chịu.

[5] Các quyết định khác của bản án không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Chấp nhận kháng cáo yêu cầu được hưởng án treo của bị cáo Vũ Văn Nam, Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2023/HS-ST ngày 21 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Phước về hình phạt.

2. Tuyên bố bị cáo Vũ Văn N phạm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

3. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 260; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các điều 38, 50, 54, 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Vũ Văn N 02 (hai) năm tù, cho hưởng án treo;

thời gian thử thách là 04 năm, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 29/9/2023.

Giao bị cáo Vũ Văn N cho Uỷ ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bình Phước để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

4. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm ngh a vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo; trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Toà án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

5. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Vũ Văn N không phải chịu.

6. Các quyết định khác của bản án không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 82/2023/HS-PT

Số hiệu:82/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về